Nàng Visakha là mẫu người phụ nữ đặc trưng đại diện cho người Khmer, nàng
là ước mơ của sắc đẹp của tuồi trẻ, của đức hạnh mà người Khmer nói chung và
phụ nữ Khmer nói riêng đều ngưỡng mộ, tôn sùng. Họ coi nàng như vị nữ thánh,
còn họ chỉ là kẻ phàm phu không thể nào vươn tới được. Trên thực tế họ chỉ có
thể noi theo tấm gương của nàng về mặt đạo đức và thực hiện bổn phận của một
tín đồ Phật giáo là làm phước và cúng dường cho các vị tu sĩ mà thôi.
Sự tích của nàng không ai không biết
đến, cuộc đời của nàng được kể như sau:
Ngày xưa, tại xứ Savathey có một gia
đình giàu có, tên là Mikeara sinh được môt đứa con trai đặt tên là Komar. Komar
lớn lên thông minh, đĩnh đạc, trông rất phúc hậu. Đến tuổi trưởng thành, bao
nhiêu người thân thuộc trong gia đình đều khen ngợi và thúc giục lấy vợ. Chàng
vẫn ngần ngừ, rồi một hôm chàng nói với cha là nếu không tìm được người con gái
nào có đủ năm điểm tốt đẹp thì chàng quyết không lấy vợ. Người cha hỏi năm điều
tốt ấy là những điều gì, chàng đáp:
1.
Tóc
nàng phải đen, dài tới gót chân và cong như đuôi của con công.
2.
Răng
phải trắng như ngà voi, đều đặn như hạt kim cương Akvivaria.
3.
Da
thịt nàng phải mịn màng và mềm mại như trái Pim-Pak.
4.
Khi
nhìn, da nàng phải ửng một màu trắng hồng như hoa sen và vẻ hồng như pha trộn
bằng năm màu khác nhau.
5.
Sắc
đẹp nàng phải bền vững, dù bao nhiêu tuổi vẫn còn trẻ như hồi còn con gái,
không có thể phân biệt được.
Biết được ý của con, cha chàng đã
tuyển chọn những người giỏi về tướng số nhất trong vùng để giúp việc đi
tìm kiếm người đẹp có đủ năm điều kiện
như trên.
Tám ông thầy giỏi tướng số đã được
giao trọng trách lên đường, mang theo nhiều vàng bạc, ngọc ngà, châu báu. Đã đi
nhiều xứ mà vẫn chưa tìm ra người đẹp, tám ông tỏ ra chán nản, muốn bỏ cuộc.
Nhưng một ông có ý kiến: “ tôi nghe tại xứ Sa kết có mở hội ca nhạc, chắc sẽ có
nhiều thiếu nữ tham dự, chúng ta thử đến đó xem”. Ý kiến này được mọi người
đồng ý.
Các thầy đi đến gần nơi mở hội ca
nhạc thì gặp năm trăm cô gái đang tắm dưới sông. Đứng xem các cô gái tắm, tám
ông chú ý đến một cô tên là Visakha. Nàng có mái tóc dài tới gót và cong như
đuôi con công. Nhìn đến da thịt của nàng, các ông thầy càng mừng, và khi thấy
nàng cười thì các ông đều quả quyết rằng đây chính là cô gái mà chàng Komar kén
chọn.
Khi tìm hiểu thêm, các ông mới biết
nàng Visakha đã sống một trăm tuổi. Nàng sinh ra cùng với thời đại của đức Phật
Thích Ca. Một hôm, các ông ngồi nghe đức Phật thuyết pháp cho các cô gái. Nhân
lúc thuyết pháp xong Đức Ananda mới hỏi Phật rằng:
-
Bạch
Đức thế tôn, con nghe nàng Visakha trong nhóm thiếu nữ này nhưng không biết là
ai, xin ngài chỉ.
-
Phật
nói: Nàng ở trong tín đồ này, con chú ý xem khi mọi người đứng dậy mà cô nào
phải chống hai tay lên đầu gối mới đứng lên nổi, thì đó chính là nàng Visakha.
Khi ấy bổng có trận mưa rào, tất cả mọi người đều tíu tít chạy vô chùa trú mưa, chỉ có nàng Visakha thì
đi thủng thỉnh như không có gì xảy ra.
Lúc ấy tám nhà tướng số vội đến hỏi
nàng tại sao không chạy, thì nàng đáp rằng:
-Người con gái không lúc nào nên chạy, vì chạy sẽ mất đi vẽ thanh tao,
rủi ro mà rách quần áo thì càng thêm xấu xa.
Các ông thầy tỏ vẻ khâm phục, theo
nàng vào nhà và lấy vòng hoa choàng vào cổ nàng, ngỏ ý cầu hôn nàng cho con
trai ông nhà giàu Mikeara. Nàng Visakha cho người đánh xe rước tám ông mai về
nhà trình diện với cha mẹ. Gia đình nàng giàu nhất xứ Sa Kết, cha nàng là phú
hộ Thnanh cheay và mẹ nàng tên là Somania ở xứ Thattikyak. Cha mẹ nàng Visakha
ưng thuận và định ngày làm đám hỏi. ngày diễn ra lễ hỏi, bên nhà trai đi năm
trăm cổ xe chở phẩm vật qua nhà gái và lễ cưới được tiến hành sau đó. Toàn bộ
chi phí bên nhà gái lo. Nhà gái sắm cho nàng Visakha một áo cưới dát vàng, kết
ngọc trị giá chín tỉ bạc theo thời giá và phải may ba tháng mới xong. Lễ cưới
kéo dài bốn tháng. Suốt trong bốn tháng, khách khứa được đãi ăn uống một cách
no say.
Trong đêm cuối cùng ở nhà với cha mẹ,
nàng Visakha được phụ thân dạy mười điều khi bước chân về nhà chồng.
1.
“
Lửa ở ngoài đường đừng đem vào trong” nghĩa là đừng bao giờ đem những lời người
ta nói xấu hoặc chỉ trích bố mẹ chồng về thuật lại cho bố mẹ chồng nghe.
2.
“
Lửa trong đừng đem ra ngoài” nghĩa là đừng mang những lời chê bai, chỉ trích
của cha mẹ chồng đối với cha mẹ mình về kể lại cha mẹ mình nghe, để tránh sự
cãi vã, gây mất lòng xui gia.
3.
“
Phải giữ gìn lửa cháy cận thận” nghĩa là không nên nản chí trong việc chăm sóc,
quạt nồng ấm lạnh cha mẹ chồng và chồng.( Cha chồng và chồng được ví như lửa
không cận thận có ngày bị phỏng tay).
4.
“
Phải ăn uống đúng chỗ” nghĩa là an cho đúng lúc và ăn sao cho đẹp.
5.
“
Phải ngủ cho đúng chỗ” nghĩa là phải biết ngủ và thức dậy vào giờ nào và phải
giữ ý lúc ngủ ( ngủ đúng nơi dành cho mình).
6.
“
Phải ngồi đúng chỗ” phải nhường chỗ cáo ráo và đẹp cho cha mẹ, biết nhường nhịn
và lễ phép khi ngồi.
7.
“
Chỉ nên cho vật gì cho kẻ nào mượn mà có trả lại”.
8.
“
Kẻ nào mượn đồ mà không trả thì lần sau không cho mượn nữa”.
9.
Đối
với thân nhân, thì dù mượn đồ có trả hay không vẫn cứ nên cho mượn”.
10. “ Phải lễ bái các vị chư thần ở trong
nhà” để tạo phước. Nàng vâng lời và cam kết thực hiện đúng những lời dạy bảo
của thân phụ.
Lễ rước dâu được tổ chức rất long
trọng. Ông phú hộ cho con vàng bạc, châu báu, đồ dùng trong nhà mỗi thứ năm
trăm cổ xe có ba cô nữ tì ngồi. Một ngàn năm trăm cô có phận sự theo hầu nàng
làm ba việc chủ yếu: tắm rửa, sửa sắc đẹp và nấu ăn. Tám ông thầy tướng số cũng
theo nàng và sống gần nàng đề bảo vệ Visakha.
Nàng ở nhà chồng rất thuận thảo, vì
nàng là người vợ hiền và dâu thảo. Nàng chỉ buồn là ông bố chồng cấm nàng không
được đi lễ chùa, nghe Phật thuyết pháp, cúng dường tu sĩ, nhắc lời Phật dạy, vì
ông bố chồng theo đạo A Chel, một đạo giáo lạ lùng của Ấn Độ. Người theo đạo
này suốt đời phải ở trần truồng, không cắt tóc, không cạo râu, phơi mình ngoài
sương nắng gọi là để làm khô héo lòng dục. Mỗi người hành đạo chỉ giữ một lời
nguyền: không cắt móng tay, móng chân, không xòe bàn tay, để một tay thẳng lên
trời, ngồi chổm hổm.v.v.cho đến khi đắc đạo. Ông bố chồng thường rước các vị A Chel
đến nhà đãi ăn uống và giới thiệu với con dâu với ý là mong nàng theo đạo này,
nhưng nàng không nói với các ông A Chel và không chịu làm lễ.
Một hôm, ông đang ngồi ăn cơm thì
thấy một nhà sư vào khuất thực, liền giả vờ không biết, thản nhiên như thường.
Nàng Visakha thưa với nhà sư:
-
Sư
nên đi nhà khác vì ở đây cha tôi chỉ dùng thức ăn thừa, không có dư để dâng sư.
Cha chồng cho là nàng đã hỗn láo, nói
ông ăn đồ thừa nên đuổi nàng về nhà cha mẹ. Tám ông thầy hay tin liền họp mặt
lại để xét xử. Trước mặt cha chồng và tám ông thầy, nàng đã giải thích:
-
Con
nói cha ăn đồ thừa là ví kiếp trước cha có nhiều phước đức nên kiếp này được
hưởng của thừa do kiếp trước tạo nên. Trong kiếp này con mong cha cũng làm
phước đức để kiếp sau cha sẽ được hưởng sự sung sướng giàu sang.
Tám ông thầy còn nêu nhiều lý lẽ đúng
đắn khiến cha chồng không thể bắt tội nàng dâu và phải rút lời tuyên bố đuổi
nàng lại.
Cũng nhân dịp ấy, nàng xin phép cha chồng cho nàng được
đi chùa, rước sư về nhà làm phước. Ông không thể từ chối, phải nhận lời.
Từ đó nàng thường mời Đức Thích Ca và
năm trăm vị đệ tử đến nhà thuyết pháp và dùng cơm. Những lần như vậy đều có cha
chồng ngồi nghe. Những lần đầu ông nghe nhưng không phục Đức Phật bằng mấy ông
A Chel; nhưng nghe nhiều lần ông càng thấm sâu lời Phật dạy, rồi ông cho rằng
những lời Phật dạy như bó đuốc soi sáng đường cho ông. Một hôm ông đã quỳ xuống
chân Đức Phật xin được làm đệ tử. Ông còn nhận tội lội trước kia gây ra và cho
đó là quãng đời tối tăm của ông. Từ nay ông coi nàng Visakha như là người đã
dẫn dắt ông từ bóng tối ra ánh sáng.
Một hôm đến chùa nghe thuyết pháp,
nàng cuộn áo cưới trao cho nữ tì giữ, khi về mời biết cô nữ tì bỏ quên trong chùa. Nàng biết những thứ bỏ quên trong chùa đều được thầy Ananda cất
giữ. Chiếc áo cưới của nàng có hơi đàn ông khác, nàng đâu có dùng nữa nên nàng
đã sai người đem bán áo cưới để lấy tiền dâng cúng vào chùa.
Nàng còn bỏ tiền ra mua đất và thuê
người cất ngôi chùa gọi là Boppea Ream. Nàng mời Đức Thích Ca về ngự tại chùa
này. Và hàng năm cứ đến mùa mưa, nhân dân làm ruộng, nàng mời tất cả các vị sư
sãi trong vùng về ở tại chùa Boppea Ream ba tháng nghe thuyết pháp. Nàng bỏ
tiền ra may áo cà sa và đồ dùng dâng các vị sư dùng trong ba tháng không ra
khỏi chùa, gọi là ba tháng nhập hạ
Nàng sinh được hai mươi đứa con, mười
trai và mười gái. Một trăm hai mươi năm sau, nàng có một một ngàn đứa con và
cháu, chút, chít cũng là năm nàng tạ thế.
Ngày nay, các chùa người Khmer có ba
tháng nhập hạ của các vị sư là bắt nguồn từ sự tích nàng Visakha là như vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét