Từ lâu vùng đất Nam Bộ đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, nhưng do hạn chế về tư liệu nên nhiều vấn đề còn đang thảo luận, ở trong nước còn quá ít sách viết về lịch sử vùng đất này, sách giáo khoa phổ thông thì gần như không đề cập đến. Tình trạng đó đã tạo nên một khoảng trống trong nhận thức của nhân dân và cán bộ về tính toàn bộ của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Lịch sử vùng đất Nam Bộ bắt đầu từ lúc nào và diễn ra như thế nào, quan hệ với miền Trung, miền Bắc như thế nào?
Xin đăng lại
nội dung quyền LƯỢC SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam biên
soạn, công bố và xuất bản năm 2007, có bổ sung năm 2009.
LỜI
GIỚI THIỆU
Trải qua quá
trình dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc, lãnh thổ và biên giới của nước
Việt Nam ngày càng được củng cố và từ lâu đã trở thành thực thể thống nhất từ
Bắc chí Nam, trong đó có vùng đất Nam Bộ. Với truyền thống kiên cường, bất
khuất và tinh thần lao động cần cù của cả dân tộc, các thế hệ người Việt Nam đã
viết nên những trang sử hào hùng trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển
vùng đất Nam Bộ, góp phần làm rạng rỡ non sông, đất nước Việt Nam.
Từ lâu vùng đất
Nam Bộ đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu,
nhưng do hạn chế về tư liệu nên nhiều vấn đề còn đang thảo luận, ở trong nước
còn quá ít sách viết về lịch sử vùng đất này, sách giáo khoa phổ thông thì gần
như không đề cập đến. Tình trạng đó đã tạo nên một khoảng trống trong nhận thức
của nhân dân và cán bộ về tính toàn bộ của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Từ sau
năm 1975, mỗi lần vào công tác hay đi khảo sát các tỉnh và thành phố ở
Nam Bộ, nhiều cán bộ đã đặt ra cho chúng tôi những câu hỏi: lịch sử vùng đất
Nam Bộ bắt đầu từ lúc nào và diễn ra như thế nào, quan hệ với miền Trung, miền
Bắc như thế nào?
Để góp phần làm
sáng tỏ sự thực về lịch sử vùng đất Nam Bộ và đáp ứng yêu cầu của nhiều bạn
đọc, Hội Khoa lịch sử Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Thế giới cho xuất bản
cuốn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam.Ban biên soạn gồm
những nhà khoa học đã từng nhiều năm quan tâm nghiên cứu vùng đất này do
GS.TSKH Vũ Minh Giang làm Chủ biên. Nhóm tác giả biên soạn trên cơ sở tổng hợp
các kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan như sử học, khảo cổ
học, dân tộc học, văn hóa học, luật học… ở trong nước và ngoài nước. Cuốn sách
trình bày một cách khách quan, có hệ thống, đơn giản và cô đọng những tư liệu,
chứng cứ cơ bản về lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ.
Trước hết, cuốn
sách giới thiệu khái quát về thời tiền sử khi con người xuất hiện trên vùng đất
Nam Bộ và chủ yếu bắt đầu từ văn hóa Óc Eo với nước Phù Nam, nghĩa là từ khi
Nhà nước đầu tiên ra đời trên vùng đất này vào đầu Công nguyên. Trong thời cổ
đại, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, xuất hiện ba trung tâm văn hóa dẫn đến sự
hình thành những nhà nước sơ khai vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á là: trung tâm
văn hóa Sa Huỳnh và nước Lâm Ấp (Chămpa) ở miền Trung, trung tâm văn hóa Óc Eo
và nước Phù Nam ở miền Nam.
Tiếp theo, cuốn
sách trình bày quá trình lịch sử sau khi nước Phù Nam sụp đổ, từ thế kỷ VII cho
đến thế kỷ XVI, khi vùng đất Nam Bộ phụ thuộc vào nước Chân Lạp và từ thế kỷ
XVII khi những nông dân người Việt rồi một số người Hoa vào khai hoang lập
nghiệp. Tiếp tục sự nghiệp của các lớp cư dân trước như người Mạ, người Xtiêng,
người Chơ Ro, người Khmer, người Chăm…, các lớp cư dân người Việt, một số người
Hoa mở rộng công cuộc khẩn hoang, phát triển kinh tế, văn hóa, đẩy mạnh công
cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ. Trong lúc đó, vương triều Chân Lạp ngày càng suy
yếu, lại bị phân hóa giữa hai thế lực Xiêm La ở phía tây và Chúa Nguyễn ở Đàng
Trong. Chính trong bối cảnh đó, chính quyền Chúa Nguyễn vừa thúc đẩy công việc
khai hoang, vừa từng bước xây dựng chính quyền, xác lập chủ quyền trên vùng đất
Nam Bộ. Đến giữa thế kỷ XVIII, toàn bộ vùng đất Nam Bộ đã hoàn toàn thuộc lãnh
thổ và chủ quyền của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ khi triều Nguyễn thành lập
vào đầu thế kỷ XIX, vùng đất Nam Bộ là bộ phận của nước Việt Nam thống nhất từ
Bắc đến Nam. Trong suốt quá trình lịch sử đó, cộng đồng cư dân các dân tộc trên
đất Nam Bộ càng ngày càng gắn bó với nhau trong vận mệnh chung của quê hương và
đất nước, trong nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ vùng đất Nam Bộ.
Cùng với lịch
sử phát triển vùng đất Nam Bộ, cuốn sách giới thiệu một số văn bản pháp lý ký
kết giữa An Nam (Việt Nam) với Cao Miên (Cam-pu-chi-a) và Xiêm La (Thái Lan)
giữa thế kỷ XIX, những hiệp ước ký kết giữa đại diện của triều Nguyễn với đại
diện của quân đội Pháp cuối thế kỷ XIX, cho đến các văn bản pháp lý ký kết giữa
Pháp với Căm-pu-chi-a về hoạch định, phân giới, cắm mốc biên giới đất liền giữa
Nam Kỳ với Căm-pu-chi-a, Hiệp ước Ê-li-dê (Elysée) năm 1949 Chính phủ Pháp trao
trả đất Nam Kỳ cho Việt Nam rồi Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1945, Hiệp định Pa-ri
năm 1973. Gần đây các hiệp ước ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với nước Cộng hòa nhân dân Căm-pu-chi-a năm 1979, 1983, 1985,
2005 xác định biên giới quốc gia trên đất liền giữa hai nước. Ngày 27-9-2006,
Thủ tướng chính phủ Việt Nam và Căm-pu-chi-a đã chứng kiến lễ khánh thành cột
mốc biên giới đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh-Việt Nam) và Bà Vẹt
(Căm-pu-chi-a). Công việc phân giới, cắm mốc đang được triển khai và sẽ được
hoàn tất vào năm 2008. Như vậy, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Căm-pu-chi-a đã trở thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp
tác bền vững giữa hai nước láng giềng.
Trên cơ sở thực
tế lịch sử và các văn bản pháp lý mang tính quốc tế, Nam Bộ là một bộ phận
không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Cuốn sách dành một phần thích đáng
trình bày về cuộc sống cộng đồng cư dân Nam Bộ và mối quan hệ đoàn kết, giao
thoa văn hóa mật thiết giữa các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm, Mạ, Xtiêng, Chơ
Ro… và những nét đặt trưng của không gian lịch sử, văn hóa Nam Bộ. Các tác giả
nhấn mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc của cộng đồng các dân tộc ở Nam Bộ trong
lao động sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như trong đấu tranh
kiên cường, bất khuất bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân
tộc Việt Nam.
Cuốn sách
có Phần phụ lục gồm bản biên niên một số sự kiện chính và toàn
văn hoặc trích lục những văn bản lịch sử và pháp lý liên quan đến những nội
dung đã được phân tích trong cuốn sách.
Trình bày dưới
dạng giản lược và phổ cập, chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ đáp ứng đực yêu cầu
tìm hiểu lịch sử vùng đất Nam Bộ của đông đảo bạn đọc và phần nào cung cấp tư
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu.
Hà
Nội mùa xuân năm Mậu tý - 2008
GS
PHAN HUY LÊ
CHỦ TỊCH HỘI
KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
1
GIAI
ĐOẠN TỪ THẾ KỶ I
ĐẾN
THẾ KỶ VII
Khảo cổ học đã
chứng minh từ cách đây hàng chục vạn năm, trên vùng đất Nam Bộ đã có người sinh
sống.
Bước sang hậu
kỳ thời đại đá mới - sơ kỳ đồ đồng, cư dân vùng này đã tạo dựng nên một nền văn
hóa phát triển dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước. Các di chỉ được phát hiện
dọc theo lưu vực sông Đồng Nai với những diễn biến khá liên tục từ di tích Cầu
Sắt (tỉnh Đồng Nai) đến Bến Đò (thành phố Hồ Chí Minh), Phước Tân (tỉnh Đồng
Nai), Cù Lao Rùa (tỉnh Bình Dương), Dốc Chùa (tỉnh Bình Dương), Cần Giờ (thành
phố Hồ Chí Minh)… cho thấy toàn bộ quá trình lịch sử sau này đã có cơ sở vững
chắc trên nền văn hóa bản địa - văn hóa Đồng Nai.
Trên cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội cuối thời kỳ đồng thau, sơ kỳ đồ sắt, dưới tác động của
văn minh Ấn Độ, khoảng đầu công nguyên, vùng đất Nam Bộ bước vào thời kỳ lập
quốc. Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì vào khoảng
thời gian dó ở phía Nam của Lâm Ấp (Chămpa), tương ứng với vùng đất Nam Bộ ngày
nay, đã xuất hiên một quốc gia có tên gọi là Phù Nam.
Quyển sách có
niên đại sớm nhất đề cập đến Phù Nam là Dị vật chí của Dương
Phù thời Đông Hán (25 – 220). Đến thời Tam Quốc (220 - 280), Phù Nam đã
thiết lập quan hệ bang giao với nước Ngô. Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm
Xích Ô thứ sáu (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc công và phương
vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô đã sai người đến các
nước phương Nam, Vua các nước Phù Nam, Lâm Ấp và Minh Đướng đều sai sứ dâng
cống. Sau đó, sách Lương thư còn cho biết Tôn Quyền nước Ngô đã sai Tuyên hóa
tòng sự Chu Ứng và Trung lang Khang đi sứ các nước phía Nam, trong đó có Phù
Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục, còn gọi là Phù
Nam truyện.
Các sách có
niên đại muộn hơn vào các thế kỷ VI – VII như Trần thư, Tùy thư, Thông điển,
Tân Đường thư.., đều có chép khá tỉ mỉ về Phù Nam.
Như vậy, nguồn
sử liệu thư tịch của Trung Quốc, không chỉ ghi nhận sự tồn tại của Vương quốc
Phù Nam ở vùng đất tương ứng với vùng đất Nam Bộ, mà còn ghi nhận các mối quan
hệ rộng và liên hệ rất thường xuyên của vương quốc này với các triều đại phong
kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, trong một thời gian dài nền văn minh cổ đại của cư
dân Nam Bộ chỉ được biết đến qua các thư tịch cổ.
Năm 1944, nhà
khảo cổ học Pháp Ma-lơ-rê (Louis Malleret) đã tiến hành một cuộc khai quật có ý
nghĩa lịch sử ở địa điểm Óc Eo. Nhiều di tích kiến trúc và hiện vật
quý đã được phát hiện. Những di vật tìm thấy trong di chỉ này và các di chỉ
khác thuộc văn hóa Óc Eo đã được chứng minh chính là di tích vật chất của nước
Phù Nam. Niên đại các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo phù hợp với thời kỳ tồn tại
của quốc gia Phù Nam được phản ánh trong các sử liệu chữ viết.
Những phát hiện
mới về văn hóa Óc Eo trong thời gian gần đây cho thấy nền văn hóa này phân bố
rất trù mật trên địa bàn các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên
Giang và nhiều địa điểm khác thuộc đồng bằng Nam Bộ. Hơn thế, các nhà khoa học
đã phát hiện nhiều chứng tích của giai đoạn văn hóa tiền Óc Eo trên đất Nam Bộ,
chứng tỏ đây là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa mà trung tâm là vùng đất
Nam Bộ và có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài. Bên cạnh quan hệ
thường xuyên với các vùng lân cận, dấu tích vật chất cho thấy sự liên kết khá
mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải.
Trong những năm
1994 – 1995, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở gò Cây Tung (An Giang) một di
tích kiến trúc gạch, có niên đại khoảng thế kỷ IX – X. Ở dưới lớp kiến trúc có
một tầng cư trú dày rõ ràng là trước Óc Eo với những hiện vật phong phú, bao
gồm đồ gốm văn thừng có vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá cùng với các bàn mài, chày
nghiền… Điều đáng chú ý là ở đây đã tìm thấy loại rìu đá có hình tứ giác (chứ
không gặp rìu có vai) và có một gờ nổi ở giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại
“bôn có mỏ” (beaked adze) được tìm thấy ở Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a. Tuy bôn
có mỏ kiểu Ma-lai-xi-a khác bôn có mỏ ở In-đô-nê-xi-a, nhưng khu vực phân bố
của các kiểu bôn có mỏ đã được xác định là vùng phân bố của cư dân nói tiếng Mã
lai – Đa đảo (Malayo – Polynésien) hay Nam Đảo (Austronésien). Những đồ gốm ở
gò Cây Tung cũng có miệng, có nhiều gờ, rất giống với những hiện vật đã được
tìm thấy ở Ma-lai-xi-a.
Cùng với di chỉ
gò Cây Tung, những di vật và mộ táng được phát hiện ở các di chỉ khác như Lộc
Giang (An Giang), Long Bửu (thành phố Hồ Chí Minh), Gò Cao Su (Long An), Giồng
Phệt, Giồng Cá Vồ (huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh)… đều góp phần khẳng
định Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết với
văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ nhân chủ yếu của nền văn hóa này là những
cư dân Mã Lai – Đa Đảo.
Về mặt nhân chủng,
từ năm 1944, Ma-lơ-rê và Bu-xcác-đơ (Bouscarde)) đã phát hiện ở Rạch Giá một di
tích khác thuộc văn hóa Óc Eo. Cùng với nhiều đồ gốm giống hệt như những đồ
vật tìm thấy ở chính di chỉ Óc Eo, người ta tìm thấy 6 sọ người cùng với
nhiều xương tay chân. Theo giám định của nhà nhân chủng học Gê-nê Vác-xanh (E.
Génet Varcin) thì tất cả những sọ người này đều thuộc giống người tiền Mã Lai
(Protomalais), giống với loại hình chủng tộc của những cư dân Thượng nói tiếng
Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên. Gần đây, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy
hàng trăm ngôi mộ và di cốt người nhưng có rất ít hộp sọ nguyên vẹn có thể đo
đạc chỉ số để xác định thành phần nhân chủng. Riêng ở di chỉ Gò Tháp (Đồng
Tháp) và Óc Eo (An Giang) tìm thấy hai sọ cổ mang đặc điểm nhân chủng tiền Mã
Lai.
Xét về mặt ngôn
ngữ, trong sách Lương thư có một chi tiết quan trọng, theo đó, có một nước
trong biển cả tên là Tì Kiển, cách Phù Nam đến 8.000 dặm, lại có ngôn ngữ không
khác mấy so với Phù Nam. Tì Kiển là tên gọi trong thư tịch cổ Trung Hoa của địa
danh Pekan, một vùng nằm ở Đông Nam bán đảo Mã Lai. Như vậy, theo nhận xét của
các tác giả Lương thư, bộ chính sử của một triều đại Trung Hoa có quan hệ
thường xuyên và mật thiết với Phù Nam thì tiếng nói phổ biến của cư dân nước
này giống với tiếng của người Mã Lai. Điều này có nghĩa xét về mặt ngôn ngữ,
đấy là thứ tiếng khác hẳn với các cư dân nói tiếng Nam Á ở vùng Đông Nam Á lục
địa.
Về mặt chữ
viết, theo các nhà nghiên cứu thì Phù Nam sử dụng chữ Phạn (Sanskrit) có nguồn
gốc từ bộ chữ cái của người (Pa-la-va), Ấn Độ.
Theo sách Tấn
thư thì tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm Ấp mà văn
hóa truyền thống của cư dân Lâm Ấp thuộc loại hình Mã Lai – Đa đảo là điều đã
được khẳng định.
Những dấu vết
khảo cổ cũng cho thấy văn hóa vật chất vùng Tây sông Hậu rất gần với người
Chăm. Chính Ma-lơ-rê (Louis Malleret) khi tiến hành khai quật văn hóa Óc Eo
cũng đã từng nhận xét rằng các kiến trúc ở đây “phần lớn được lợp mái
ngói bằng, một kiểu khắc hẳn ở Angkor”. Nhiều viên chì lưới tìm thấy ở Óc
Eo chứng tỏ cư dân miền Tây sông Hậu đã phát triển nghề đánh cá. Những dấu vết
còn lại của hệ thống kênh đào đã nói lên kinh nghiệm và tài nghệ trong khả năng
làm thuỷ lợi, khai phá và canh tác ở đồng bằng trũng thấp của nhóm Mã Lai – Đa
Đảo ven biển.
Trong quá trình
mở rộng ảnh hưởng từ thế kỷ III đến thế kỷ VI, Phù Nam đã phát triển thành đế
chế lớn mạnh. Theo sử liệu Trung Hoa, các vua Phù Nam bắt đầu đời thứ V là Phạm
Mạn đã liên tục thôn tính hơn 10 nước, mở rộng lãnh thổ đến 5, 6 nghìn dặm bao
gồm các nước Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan… Những tiểu
quốc này đều nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần hạ lưu sông Mê Nam. Mức độ phụ
thuộc của các tiểu quốc này không giống nhau, được gọi là thuộc quốc, ki mi
(ràng buộc lõng lẻo) hoặc chi nhánh của Phù Nam. Đến thế kỷ V, tiểu quốc của
người Cát Miệt ở vùng Biển Hồ Tongle Sap cũng trở thành một thuộc quốc. Cát
Miệt chính là phiên âm chữ Hán tộc danh Khmer. Trong nhiều thư tịch cổ, thuộc
quốc sau này có tên gọi là Chân Lạp (Tchenla). Về mặt lịch sử, các tư liệu
trong thư tịch cổ Trung Quốc phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp. Phù Nam là
một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay của Việt Nam, cư dân
chủ thể là người Mã Lai – Đa Đảo có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá
phát triển. Trong thời kỳ cường thịnh, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng, chi phối
toàn bộ vùng vịnh Thái Lan và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch từ Nam
Đông Dương sang Ấn Độ qua eo Kra.
Sau một thời kỳ
phát triển rực rỡ, đế chế Phù Nam bắt đầu quá trình tan rã vào cuối thế kỷ VI.
Chân Lạp do người Khmer xây dựng, lúc bấy giờ ở vùng trung lưu sông Mê Kông và
khu vực phía Bắc Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính, là một thuộc quốc
của Phù Nam. Mặc dù là thuộc quốc của Phù Nam, nhưng Chân Lạp đã nhanh chóng
phát triển thành một vương quốc độc lập vào thế kỷ VI và nhân sự suy yếu của
Phù Nam đã tấn công chiếm lấy một phần lãnh thổ của đế chế này vào đầu thế kỷ
VII.
Phần lãnh thổ
ấy tương đương với vùng đất Nam Bộ của Việt Nam ngày nay. Sách Tùy thư chép
rằng nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam.
Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.
Sách Tân Đường thư cho biết cụ thể hơn là vào đầu niên hiệu
Trịnh Quán nhà đường (627 – 649): “Trong nước Phù Nam có thay đổi lớn.
Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải
chạy trốn về Na Phất Na”. Theo các nhà nghiên cứu thì Na Phất Na là một
vùng ở miền Tây sông Hậu. Cư dân ở đây là bộ phận cực Nam của nhóm Mã Lai – Đa
Đảo ven biển. Căn cứ vào sự kiện năm 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường,
có thể thấy chắc chắn sự kiện nước Phù Nam bị tiêu diệt phải xảy ra sau năm
này. Như vậy, Phù Nam là một quốc gia có cư dân và truyền thống văn hóa riêng
của mình. Với hiểu biết khoa học cho đến ngày nay có thể thấy đó là quốc gia
hình thành và phát triển trên vùng đất có vị trí giao thoa nên có nhiều lớp cư
dân đan xen. Căn cứ vào những tư liệu thư tịch, những đặc trưng phổ biến của
văn hóa Óc Eo qua các di vật khảo cổ, có thể nhận ra rằng bộ phận cư dân chủ
yếu của vương quốc Phù Nam có quan hệ mật thiết với truyền thống văn hóa của
người Mã Lai – Đa Đảo. Xác định thành phần tộc người của cộng đồng cư dân Phù
Nam còn phải tiếp tục nghiên cứu, nhưng giống như các nước Đông Nam Á khác, với
đặc tính đa tộc người, bên cạnh người Mã Lai – Đa Đảo trong thành phần cư dân
còn có những tộc người khác. Nước Chân Lạp thành lập ở phía Đông Bắc Phù Nam mà
cư dân thuộc ngôn ngữ Môn – Khmer nên có thể nghĩ rằng có những nhóm tộc người
Môn – Khmer cổ đã có mặt trên vùng đất giáp ranh và sống xen kẽ với người Mã
Lai – Đa Đảo. Sự mở rộng ảnh hưởng về phía Tây của Phù Nam đã biến một số cư
dân bán đảo Mã Lai, vùng hạ lưu sông Mê Nam và Biển Hồ Tongle Sap thành thuộc
quốc. Vào cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, các thuộc
quốc lần lượt trở thành các vương quốc độc lập. Riêng Chân Lạp, nhân cơ hội đó
đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ Phù Nam ở vùng hạ lưu sông Mê Kông.
Như vậy, từ chỗ một vùng đất thuộc Phù Nam - một quốc gia độc lập và hùng mạnh,
sau năm 627, vùng đất Nam Bộ đã bị phụ thuộc vào Chân Lạp.
2
GIAI
ĐOẠN TỪ THẾ KỶ VII
ĐẾN
THẾ KỶ XVI
Sau khi Chân
Lạp đánh bại Phù Nam, trong một số sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi “Thuỷ
Chân Lạp” để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ và phân biệt với
vùng đất “Lục Chân Lạp”, tức là vùng đất gốc của Chân Lạp.
Từ đây vùng đất
Nam Bộ được sáp nhập vào lãnh thổ Chân Lạp. Nhưng trên thực tế, việc cai quản
vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp nhiều khó khăn. Trước hết, với
truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi
đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi
lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ
của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy
Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam. Theo
những tài liệu bi kí còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ VIII, tại vùng trung
tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do
một người dòng dõi Vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì.
Khi Phù Nam tan
rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ vốn là thuôc quốc hoặc chư hầu cũ nổi lên thành
những nước mạnh. Trong số đó có Srivijaya của người Java hùng mạnh nhất. Vào
nửa sau thế kỷ VIII, quân đội nước này đã liên tục tấn công vào các quốc gia
trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thủy Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương
quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802
mới kết thúc. Trong vòng một thế kỷ, vùng đất Nam Bộ lại nằm dưới quyền kiểm
soát của người Java.
Một trở ngại
trong việc cai quản và phát triển vùng Thủy Chân Lạp là tình trạng chiến tranh
diễn ra thường xuyên giữa Chân Lạp với Chămpa. Trong khi đó, chính quyền Chân
Lạp chỉ dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của mình ở khu vực
Biển Hồ, trung lưu sông Mêkông và hướng nỗ lực mở rộng ảnh hưởng sang phía Tây,
vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế
kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh
Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả khu
vực sông Chao Phaya. Căn cứ vào những kết quả gần đây nhất, có thể thấy những
di tích khảo cổ học mang dấu ấn Chân Lạp trên đết Nam Bộ trước thế kỷ XVI không
nhiều và ảnh hưởng văn minh Angkor ở vùng này cũng không đậm nét.
Cho đến thế kỷ
XIII, cư dân ở vùng đất Nam Bộ còn thưa thớt. Chu Đạt Quan, một người Trung
Quốc có dịp đến Chân Lạp vào năm 1296 – 1297, đã mô tả vùng đất Nam Bộ như sau:
“Từ
chỗ vào Chân Bồ trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo
dài mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau
ở trong đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc
cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp nhau thành từng
đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm
dặm. Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng”.
Bắt đầu từ cuối
thế kỷ XIV, Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Xiêm
từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Vương triều Ayuthaya hình thành vào giữa
thế kỷ XIV. Trong suốt 78 năm (từ 1353 đến 1431), Ayuthaya và Chân Lạp liên
tiếp có chiến tranh, trong đó chủ yếu là những cuôc tiến công Chân Lạp từ phía
người Thái. Trong thời kỳ đó, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya
chiếm đóng.
Sang thế kỷ
XVI, và nhất là thế kỷ XVII, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị
chia rẽ sâu sắc. Vương quốc này dần bước vào thời kỳ suy vong. Trong bối cảnh
như vậy, Chân Lạp hầu như không có khả năng kiểm soát đối với vùng đất còn ngập
nước ở phía Nam, vốn là địa phận của vương quốc Phù Nam. Trên thực tế, khả năng
kiểm soát và quản lý vùng đất này của vương triều Chân Lạp giảm sút dần.
3
GIAI
ĐOẠN TỪ
ĐẦU
THẾ KỶ XVII
ĐẾN
CUỐI THẾ KỶ XVIII
Từ đầu thế kỷ
XVII, đã có lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của Chúa Nguyễn đến Mô
Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa) khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người
Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.
Năm 1620, Chúa
Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương
Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu của Vương triều Chân Lạp. Sự việc này
cũng đã được Christofo Borri, một giáo sĩ người Ý sống tại thị trấn Nước Mặn
(nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) vào các năm 1618 – 1622 ghi nhận.
Dưới sự bảo trợ của bà Hoàng hậu người Việt của Vương triều Chey Chettha II
(1619 – 1627), cư dân Việt từ vùng Thuận - Quảng vào sinh sống làm ăn ở lưu vực
sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Đây chính là cơ sở thuận lợi cho Chúa Nguyễn
từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình một cách hòa bình đối với vùng đất
đã được người Việt khai khẩn.
Năm 1623, Chúa
Nguyễn đã cho lập thương điếm ở vị trí tương ứng với Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay) để thu thuế. George Maspesro trong sách Đế quốc Khmer khảo
cứu kỹ lưỡng biên niên sử Khmer cho biết: “Nhà vua mới lên ngôi Chey Chettha II
liền xây một cung điện ở Oudung (U Đông). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ
cưới một công chúa con vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu, bà có ảnh
hưởng mạnh đến nhà Vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được Chey Chettha
cho phép lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài
Gòn.
Theo Đại
Nam thực lục tiền biên, tháng 9 năm Mậu Tuất (năm 1658), vua nước Chân
Lạp là Nặc Ông Chân (Chan Ramathipati) xâm lấn đất đai của Chúa Nguyễn ở vùng
Mô Xoài (Bà Rịa), đã bị quan quân địa phương bắt giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn
Phúc Tần “tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần hàng
năm nộp cống”.
Tư liệu trên
xác nhận những hoạt động quan trọng đầu tiên của Chúa Nguyễn trên con đường
từng bước hình thành và bảo vệ chủ quyền của mình đối với vùng đất miền Đông
Nam Bộ trong những thập kỷ đầu và giữa thế kỷ XVII.
Cùng với các
nhóm cư dân người Việt, trong thời gian này cũng xuất hiện một số người Trung
Quốc đến khai khẩn đất hoang và sinh sống làm ăn ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc
nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan đại thần và quân lính
trung thành với triều đình nhà Minh không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh
đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh hơn quá trình
khai phá vùng đất đồng bằng Nam Bộ.
Sách Đại
Nam thực lục chép: “Kỷ Mùi, năm thứ 31 (1679), mùa Xuân, tháng
Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tướng
Hoàng Tiến, tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000
quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bô
thần nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ.
Bấy giờ bàn bạc rằng: “Phong tục, tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dung,
nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố
(tên cổ của Gia Định) nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình
chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm
một việc mà lợi ba điều. Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng,
trao cho quan chức khiến đến ở đất Đông Phố. Lại cáo dụ nước Chân Lạp rằng như
thế là có ý không để nước Chân Lạp ra ngoài. Bọn Ngạn Địch đến cửa Khuyết tạ ơn
để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Lôi Lạp (nay thuộc đất
Gia Định) đến đóng ở Bàn Lân (nay thuộc Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố
xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại
tấp nập…”.
Sách Đại
Nam nhất thống chí, căn cứ vào các dấu tích hoạt động cụ thể đã cho biết
nhóm Trần Thượng Xuyên đến Biên Hoà “mở đất, lập phố”, còn nhóm
Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho “dựng nhà cửa, hợp người Kinh, người Di, kết
thành làng xóm. Sau đó dựng 9 trường biệt nạp là Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương,
Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Cạnh, Tân Thạnh cho dân lập ấp
khai khẩn ruộng đất cày cấy; lại lập thành trang, trại, man, nậu, nhân dân đều
theo nghề nghiệp của mình làm ăn để nộp thuế”. Như vậy, cùng với Sài Gòn –
Gia Định, Biên Hòa và Mỹ Tho cũng đã đang dần dần trở thành những trung tâm cư
dân và kinh tế phát triển dưới quyền cai trị của Chúa Nguyễn ở miền Đông và cả
miền Tây Nam Bộ.
Cùng thời gian
này, Mạc Cửu là người xã Lôi Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng
Đông (Trung Quốc) cũng vì việc nhà Minh mất mà “để tóc chạy sang phương
Nam, đến nước Chân Lạp làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều
người buôn bán các nước tụ họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi,
lại được hố bạc chôn nên trở thành giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các
nơi Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Lũng Kỳ, Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên)
lập thành 7 xã, thôn”. Mạc Cửu đã biến toàn bộ vùng đất Hà Tiên – Long
Xuyên - Bạc Liêu – Cà Mau (được gọi chung là Hà Tiên) thành khu vực cát cứ của
dòng họ mình, không còn lệ thuộc vào chính quyền Chân Lạp nữa. Sách Thanh
triều văn hiến thông khảo gọi đây là nước Cảng Khấu (Cảng Khẩu
quốc): “Nước này có nhiều núi cao, địa hạt khoảng 100 dặm vuông. Thành
và các cung thất làm bằng gỗ không khác Trung Quốc mấy. Chỗ vua ở xây bằng gạch
ngói. Chế độ trang phục phảng phất các Vua đời trước, búi tóc, đi võng, chít khăn,
đội mũ. Vua mặc áo bào vẽ trăn rắn, lưng thắt dải đai, giày dép bằng da. Dân
mặc áo vạt cổ rộng. Khi có tang thì mặc đồ màu trắng, bình thường thì áo nhiều
màu… Họ gặp nhau thì chắp hai tay chào theo lễ. Phong tục nước này ham chuộng
thơ văn, trong nước có dựng đền thờ Khổng Tử. Vua và dân đều đến lễ…”
Những sự kiện
trên cho thấy, trong thời kỳ này vùng đất Nam Bộ đã trở thành nơi tranh chấp
ảnh hưởng và quyền bính giữa hai thế lực của Vương triều Chân Lạp và Chúa
Nguyễn, trong đó vai trò của Chân Lạp ngày càng lu mờ, còn vai trò của Chúa
Nguyễn thì ngày càng được khẳng định, mở rộng và củng cố. Năm 1674, Vương triều
Chân Lạp bị chia thành Chính Quốc Vương (đóng ở U Đông) và Phó Quốc Vương (đóng
ở Sài Gòn), cả hai đều triều cống Chúa Nguyễn. Năm 1691, Phó Quốc Vương Nặc Ông
Nộn (Ang Non) qua đời và từ đó, vùng đất này không còn đại diện của Vương triều
Chân Lạp nữa.
Năm 1698, Chúa
Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai.
Tại đây, ông tiến hành “chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện
Phúc Long (nay thăng làm phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy
xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức
dinh Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và
các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn
dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những người dân xiêu bạt từ Bố Chính trở
về Nam cho đến ở đông. Thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai
khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh
đến buôn bán ở Trấn Biên lập thành xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập làm xã Minh
Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ”.
Như vậy, Chúa
Nguyễn đã xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng Nai (huyện
Phúc Long) – Sài Gòn (huyện Tân Bình), sáp nhập hẳn vào lãnh thổ Đàng Trong, tổ
chức các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền từ cấp dinh trấn cho đến tận
các thôn xã, thực thi quyền lực nhà nước trong việc quản lý đất đai, hộ khẩu,
thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên và thu thuế qua việc trao đổi với
thương nhân nước ngoài. Đến đây, Sài Gòn – Gia Định đã trở thành trung tâm hành
chính – chính trị và đang từng bước hình thành một trung tâm kinh tế và văn hóa
của vùng đất mới. Sự kiện năm 1698 là cột mốc quan trọng trong quá trình xác
lập và thực thi chủ quyền của Chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ.
Trước tình hình
phát triển hết sức nhanh chóng của khu vực Gia Định dưới quyền quản lý của
chính quyền Chúa Nguyễn, Mạc Cửu càng ngày càng nhận thấy không thể không dựa
vào chính quyền Chúa Nguyễn nếu muốn tiếp tục củng cố và mở rộng thế lực trên
vùng đất này, nên đã đem toàn bộ vùng đất đang cai quản về với Chúa Nguyễn.
Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện xảy ra vào năm 1708: “Đến
đây Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và Lý xã dâng thư xin làm Hà
Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu xây dựng binh ngũ,
đóng ở Phương Thành, nhân dân gày càng đến đông”. Tháng 4 năm 1711, Tổng
binh trấn Hà Tiên Mạc Cửu đã đến cửa khuyết để tạ ơn và được Chúa Nguyễn Phúc
Chu hậu thưởng.
Việc vùng đất
Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong là sự kiện đánh dấu bước phát
triển quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của Chúa Nguyễn trên vùng
đất Nam Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên
và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài Biển Đông và vịnh Thái Lan. Lúc
này, bên cạnh đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo giữa Biển Đông, Chúa Nguyễn
còn đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai
thác hóa vật, kiểm tra, kiểm soát thực thi chủ quyền của Việt Nam ở khu
vực “các xứ Băc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên”.
Sau khi Mạc Cửu
mất, Chúa Nguyễn tiếp tục phong cho con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc
trấn Hà Tiên và “Cho 3 thuyền long bài được miễn thuế, sai xuất dương
tìm mua các của quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi.
Thiên Tứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành lũy, mở phố chợ, khách
buôn các nước đến họp đông. Lại vời những người văn học, mở Chiêu Anh các, ngày
ngày cùng nhau giảng bàn và xướng họa, có 10 bài vịnh Hà Tiên (Hà Tiên thập
vịnh)”. Trong lời tựa cuốn Hà Tiên thập vịnh viết vào cuối Hạ năm Đinh Tỵ
(1737), chính Mạc Thiên Tứ đã khẳng định: “Trấn Hà Tiên nước An Nam xưa
là đất hoang, từ tiên quân khai sáng tới nay, đã hơn 30 năm, mà dân mới được
yên… Mùa hè năm Ất Mão (1735), tiên quân mất đi, tôi nối theo mối trước, trong
khi chính trị thư rỗi, hàng ngày cùng với văn nhân bàn việc vịnh thơ… Do đó biết
núi sông nhờ được phong hóa của tiên quân mà thêm phần tráng lệ, lại được các
danh sĩ phẩm đề mà thêm vẻ linh tú. Thơ này chẳng những chỉ làm cho chốn ven
biển thêm phần tươi đẹp, mà cũng là một trang sử của trấn Hà Tiên vậy”.
Mạc Thiên Tứ
không chỉ ra sức xây dựng và phát triển Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế
phồn thịnh, mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là người được
giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất nước. Sách Đại Nam
thực lục cho biết vào năm 1739: “Nặc Bồn nước Chân Lạp lấn Hà
Tiên… Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh
hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương
đến nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin
thắng trận báo lên, Chúa cả khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng
quân, ban cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn Thị làm Phu nhân. Do đó Chân
Lạp không dám nhòm ngó Hà Tiên nữa”.
Năm 1744, Chúa
Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, tổ chức bộ máy hành chính thống nhất, chia
toàn bộ đất Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn phụ thuộc. Các dinh đều đặt trấn
thủ, cai bạ và ký lục để cai trị. Đứng đầu trấn là chức đô đốc. Riêng vùng đất
Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên.
Vào khoảng thời
gian này, Vương triều Chân Lạp lâm vào tình trạng nội bộ mâu thuận, chia rẽ. Có
thế lực muốn dựa hẳn vào Chúa Nguyễn, nhưng lại có thế lực muốn chạy theo vua
Xiêm. Các lực lượng đối địch luôn tìm mọi cơ hội để thôn tính lẫn nhau. Sách Đại
Nam thực lục cho biết vào năm Mậu Thìn (1748) “Nặc Tha (Satha
II) nước Chân Lạp lên ngôi Vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận.
Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định. Thâm liền chiếm đất. Đến khi Thâm
chết, con là Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm Vua…Mùa Hạ, tháng 6, Nặc Nguyên (Ang
Tong) nước Chân Lạp (con thứ hai Nặc Thâm) cùng Cao La Hâm và Ốc Đột Lục Man
cầu viện quân Xiêm về đánh Nạc Tha. Nạc Tha (Satha II) lại chạy sang Gia Định,
rồi bị bệnh chết. Nặc Nguyên (Ang Tong) làm vua nước ấy”.
Vùng đất Hà
Tiên sau khi nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, ngày một hưng thịnh, trở thành nơi
nhiều thế lực trong triều đình Chân Lạp tìm đến với hy vọng được cưu mang và
cậy nhờ. Cuối năm 1755, chính vua Chân Lạp là Nặc Nguyên đã “chạy về Hà
Tiên, nương tựa đô đốc Mạc Thiên Tứ”.
Năm 1756, Nặc
Nguyên “xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn
thiếu 3 ăm về trước để chuộc tội”. Sau khi bàn tính kỹ, Chúa Nguyễn đã chấp
nhận việc “lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt lũy
đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho đặt lệ vào
châu Định Viễn để thu lấy toàn khu”.
Năm sau, năm
1757, Nặc Nguyên qua đời. Người chú họ là Nặc Nhuận tạm trông coi việc nước,
nhưng ngay sau đó triều đình Chân Lạp lại rối loạn, đánh giết lẫn nhau. Người
con của Nặc Nhuận (em họ của Nặc Nguyên) là Nặc Tôn (Outey II) chạy sang Hà
Tiên. Mạc Thiên Tứ đã cưu mang và giới thiệu Nặc Tôn lên Chúa Nguyễn. “Chúa
bèn sắc tôn cho Nặc Tôn (Outey II) làm vua nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với
tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc Tôn (Outey II) bèn dâng đất Tầm Phong
Long… Bấy giờ Nặc Tôn (Outey II) lại cắt năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum,
Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa
cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt Hà Tiên, Thiên Tứ xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên
Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp
làm địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng”.
Như vậy, đến
năm 1757, những phần đất còn lại ở miền Tây Nam Bộ mà trên thực tế đã thuộc
quyền cai quản của Chúa Nguyễn từ trước đó, chính thức thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Sau đó, dưới thời Nhà Nguyễn (1802 – 1945), tuy có một số địa điểm cụ thể
vẫn còn được tiếp tục điều chỉnh, nhưng trên căn bản khu vực biên giới Tây Nam
Việt Nam đã được hoạch định từ năm 1757.
Trên vùng đất
Nam Bộ, Chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc
khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở
hữu tư nhân.
Trước làn sóng
tự động di cư vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những người nông dân Thuận
– Quảng, chúa Nguyễn cho người đứng ra tổ chức các cuộc di cư này và lập thành
các xã, thôn, phường, ấp của người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận – Quảng đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân
lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Chính sách này được thực thi lâu dài và
nhất quán như một phương thác khai hoang chủ yếu ở Nam Bộ. Lực lượng khai hoang
chủ yếu là lưu dân người Việt và một bộ phận những người dân gốc Chămpa, Chân
Lạp. Ngoài ra, một số lính đồn trú, một số người Trung Quốc, người dân tộc
thiểu số khác cũng được sử dụng vào việc khai khẩn và canh tác.
Thế kỷ XVII
-XVIII, trên vùng đất này hiện tượng tích tụ ruộng đất với quy mô lớn đã xuất
hiện. Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết:”Phủ Gia
Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu toàn
là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm. Họ Nguyễn chiêu mộ những người dân có vật lực ở
xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới ở đây, phát
chặt mở mang hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm trồng
cau và làm nhà cửa… Người giàu ở các địa phương hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30
nhà mỗi nhà điền nô hoặc đến 50, 60 người, trâu bò, hoặc đến 300, 400 con, cày
bừa, cấy gặt, rộn ràng không rỗi. Hàng năm đến tháng 11, tháng 12 thường giã
thành gạo, bán lấy tiền để ăn tết Chạp. Từ tháng Giêng trở đi là không làm việc
xay giã. Bình thời chỉ bán ra Phú Xuân để đổi lấy hàng Bắc, lụa lĩnh, trừu
đoạn, áo quần tốt đẹp, ít có vải bố. Đất ấy nhiều ngòi lạch, đường nước như mắc
cửi, không tiện đi bộ. Người buôn có chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ
để thông đi các kênh. Từ cửa biển đến đầu nguồn đi 6, 7 ngày, hết thảy là đồng
ruộng bằng phẳng, bát ngát, rất thích hợp trồng các loại lúa nếp, lúa tẻ, gạo
đều trắng dẻo …”
Bảo vệ dân
chúng khẩn hoang và xác lập chủ quyền là hai quá trình được các Chúa Nguyễn
tiến hành song song đồng thời, trong đó xác lập chủ quyền là để bảo vệ tính hợp
pháp của công cuộc khẩn hoang và thành quả của công cuộc khẩn hoang chính là cơ
sở để xã lập chủ quyền một cách thật sự. Chỉ sau hơn một thế kỷ, tính từ đầu
thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XVIII, toàn bộ khu vực Nam Bộ đã hoàn toàn
thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển
kinh tế - xã hội năng động. Đây chính là thành quả lao động cần cù và sáng tạo
của tất cả các cộng đồng dân cư trong guồng máy phát triển chung của đất nước,
trong đó vai trò của lớp cư dân người Việt, người Khmer và người Hoa là rất nổi
bật.
Các Chúa Nguyễn
cũng đã bố trí lực lượng quân sự, thiết lập các đồn thủ “nơi xung yếu” để chống
giặc, an dân, bảo vệ chủ quyền, đã đập tan nhiều cuộc xâm lược lãnh thổ Nam Bộ
của quân Xiêm.
Tiêu biểu cho ý
chí bảo vệ chủ quyền vùng đất Nam Bộ, phải kể đến chiến thắng Rạch Gầm – Xoài
Mút của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy trước 5 vạn quân xâm lược Xiêm năm 1785.
Chiến thắng này đã đập tan âm mưu xâm lươc Nam Bộ của quân Xiêm, thể hiện quyết
tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của chính quyền Tây Sơn. Đây là chiến công lừng
lẫy trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
4
GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 1802
ĐẾN NĂM 1954
Năm 1802 triều
Nguyễn thành lập đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước từ Bắc chí Nam. Lúc
đầu, vùng đất Nam Bộ được chia thành các trấn trực thuộc phủ Gia Định, sau đó
từ năm 1832 dưới thời vua Minh Mệnh, lại được chia thành 6 tỉnh (Lục tỉnh) trực
thuộc trung ương.
Vào nửa đầu thế
kỷ XIX, khi quan hệ khu vực có nhiều biến động, nhà Nguyễn đã thi hành các
chính sách cương quyết để bảo vệ biên giới Tây - Nam, cho xây dựng hệ thống
thành và bảo trấn giữ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Lực lượng quân đội
được củng cố và tăng cường từ trung ương đến địa phương, trách nhiệm và nghĩa
vụ bảo vệ chủ quyền của lực lượng quân đội được quy định chặt chẽ trong bộ luật
Gia Long hoàn thành năm Gia Long thứ 11 (Nhâm Thân-1812).
Để quản lý chặt
chẽ lãnh thổ, triều Nguyễn đã lập địa bạ trên toàn Lục tỉnh Nam Kỳ (1836);
thiết lập, củng cố tổ chức hành chính, hoàn chỉnh bộ máy quản lý xã hội từ thôn
(xã) đến tổng, huyện, phủ, tỉnh. Bên cạnh bộ máy tổ chức hành chính, chùa Phật
Tiểu thừa của người Khmer, các thiết chế văn hóa, tính ngưỡng dân gian của
người Việt được hình thành và vận hành: đình thờ Thành hoàng, am miếu của Đạo
giáo và chùa phật Đại thừa. Các thiết chế, cơ sở văn hóa và tín ngưỡng dân gian
này vừa có tác dụng trấn tĩnh nhân tâm, ổn định xã hội, vừa góp phần vào việc
thực thi chủ quyền của Việt Nam trên những vùng đất mới.
Cùng với các
biện pháp về chính trị, quân sự, nhà Nguyễn đã có những chính sách khuyến khích
phát triển kinh tế xã hội. Công cuộc dinh điền, xây dựng đồn điền vừa tạo cơ sở
kinh tế - xã hội cho quốc gia, vừa cũng cố quốc phòng. Việc đào kênh, đắp
đường, phát triển giao thông thủy bộ như đào kênh Thoại Hà (1817), kênh Vĩnh Tế
(1819 – 1824), kênh Vĩnh An (1843 – 1844), vừa tạo nên những hào lũy nhân tạo
kết hợp với những hào lũy tự nhiên để bảo vệ lãnh thổ Nam Bộ.
Hệ thống các
chính sách tương đối toàn diện của Nhà Nguyễn đã tạo nên sức mạnh và nguồn lực
tổng hợp hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Nam Bộ, tạo nên sức
mạnh quân sự đánh bại các đội quân xâm lược Nam Bộ vào các năm 1833, 1841, 1847
…
Về mặt ngoại
giao, đến thế kỷ XIX chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ đã chính thức được
các nước láng giềng, trong đó có cả Cao Miên (Cam-pu-chi-a), thừa nhận trong
các văn bản có giá trị pháp lý quốc tế. Tháng 12 năm 1845, ba nước An Nam, Xiêm
La (Thái Lan), và Cao Miên (Cam-pu-chi-a) ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6
tỉnh Nam kỳ thuôc Việt Nam. Năm 1846, một Hiệp ước ký giữa An Nam và Xiêm La có
nhắc lại những điều khoản trên và Cao Miên sau đó cũng tham gia và hiệp ước
này. Trong phần mở đầu của Hiệp ước bí mật giữa Xiêm La và Cao Miên, ký ngày
01/12/1863 nêu rõ: “Cao Miên nằm giữa các lãnh thổ Xiêm La, Nam Kỳ và
các vùng đất thuộc Pháp”. Như vậy là chậm nhất đến năm 1845 – 1846 các nước
láng giềng với Việt Nam đã ký kết các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng
đất nam Bộ là của Việt Nam.
Trước sức mạnh
xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã từng bước nhượng các tỉnh thuộc vùng
đất Nam Bộ cho Pháp. Năm 1862, đại diện của Nhà Nguyễn là Phan Thanh Giản và
đại diện của Pháp là đô đốc Bô-na (Bonard) đã ký Hiệp ước nhường quyền cai quản
3 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Tiếp đó, năm 1867, Pháp lại đánh chiếm 3 tỉnh
miền Tây Nam Bộ để tới năm 1874, triều đình Nhà Nguyễn ký tiếp Hiệp ước nhượng
toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp cai quản.
Về mặt chính
trị, hai Hiệp ước 1867 và 1874 được ký dưới sức ép và sự đe dọa vũ lực của quân
Pháp, thể hiện sự bất lực của Nhà Nguyễn, nhưng về mặt pháp lý, nhất là ý nghĩa
pháp lý quốc tế thì hai Hiệp ước này lại là bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ
không thể tranh cãi của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ. Pháp không thể ký kết
một Hiệp ước chia cắt một phần lãnh thổ của một quốc gia nếu quốc gia kết ước
không có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó.
Năm 1887 thực
dân Pháp đã thành lập Liên bang Đông Dương với hai quy chế khác nhau giữa
Cam-pu-chi-a và Nam Kỳ của Việt Nam. Pháp duy trì chế độ bảo hộ ở Căm-pu-chi-a
và thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ. Để phục vụ mục đích cai trị lâu dài ở
Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp tại Nam Kỳ đã tiến hành hoạch định biên
giới giữa Nam Kỳ và Cam-pu-chi-a theo luật pháp của Cộng hòa Pháp trên cơ sở
nghiên cứu lịch sử và qúa trình thực thi chủ quyền của các triều đại phong kiến
Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chi-a.
Quá trình
nghiên cứu, khảo sát, đo đạc và làm việc song phương trên thực địa của các
chuyên gia Pháp và Cam-pu-chi-a để xác định biên giới giữa Nam Kỳ và
Cam-pu-chi-a đã được tiến hành chậm nhất là đầu năm 1870. Cho đến 1896, giữa
Pháp và Cam-pu-chi-a đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân
giới, cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cam-pu-chi-a. Tất cả các văn bản pháp lý
nêu trên đều quy định rõ ràng vùng đất Nam kỳ hoàn toàn thuộc Việt Nam. Sau
này, toàn quyền Đông Dương chỉ ban hành một số Nghị định để điều chỉnh một số
đoạn biên giới nhỏ.
Cùng với việc
hoạch định biên giới và phân giới, cắm mốc trên thực địa, Sở Địa dư Đông Dương
đã in ấn bản đồ thể hiện đầy đủ rõ ràng đường biên giới giữa Nam Kỳ và
Cam-pu-chi-a. Đến năm 1954, toàn bộ biên giới giữa hai nước Việt Nam và
Cam-pu-chi-a đã được thể hiện trên 26 mảnh bản đồ tỷ lệ 1/100.000 do Sở Địa dư
Đông Dương xuất bản. Về cơ bản, đường biên giới giữa Nam Kỳ và Cam-pu-chi-a
được thể hiện trên các bản đồ này phù hợp với các văn bản pháp lý đã được ký
giữa hai nước liên quan đến hoạch định và phân giới, cắm mốc đường biên giới,
cũng như so với đường biên giới hiện nay giữa hai nước Việt Nam và
Cam-pu-chi-a.
Khi triều đình
Nhà Nguyễn buông ngọn cờ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thì nhân dân
đã không tiếc xương máu đồng lòng đứng lên đấu tranh chóng lại ách đô hộ của
thực dân Pháp, bảo vệ vùng đất Nam Bộ, bảo vệ đất nước. Khi thực dân Pháp chiếm
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (1862), có phong trào “tỵ địa” của số đông sĩ phu yêu
nước sang miền Tây, và khi thực dân Pháp chiếm miền Tây Nam Bộ (1867), họ lại
“tỵ địa” ra Bình Thuận, nêu cao ý chí “bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam thì
mới hết người Nam đánh Tây”, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ. Phong trào kháng chiến chống Pháp ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt, dưới
nhiều hình thức phong phú như nổi dậy với khẩu hiệu ”Dân chúng tự vệ”, hưởng
ứng phong trào Cần Vương, các cuộc đấu tranh thu hút đông đảo sự tham gia của
các tầng lớp nhân dân, từ nông dân đến các tín đồ tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương,
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
Không chỉ đánh
giặc bằng súng đạn, giáo mác, người dân Nam Bộ còn huy động mọi thứ vũ khí để
chiến đấu. Tấm gương đánh giặc bằng bút của Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu) đã
khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần yêu nước của nhân dân Gia Định. “Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” và “Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận
vong” của ông và thơ văn yêu nước chống Pháp của nhiều sĩ phu yêu nước
khác đã thực sự là những thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu trang chống ách đô
hộ ngoại bang của nhân dân Nam Bộ.
Lịch sử đấu
tranh anh dũng chống ngoại xâm của nhân dân Nam Bộ đã viết nên những trang sử
bằng máu, mãi mãi để lại những tấm gương sáng ngời, tiêu biểu cho ý chí bảo vệ
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước như: Trương Định, Nguyễn
Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình Chiểu…
Bước sang thế
kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam có những bước chuyển biến
mới, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, khí thế cách mạng ngày càng sục sôi trong cả nước. Tại Nam Kỳ, ngày
23/11/1940, đông đảo các tầng lớp nhân dân đã đồng loạt nổi dậy khổi nghĩa ở 17
trên 21 tỉnh, thành phố và kéo dài đến 31/12/1940. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã
tạo ra một cơn bão táp cách mạng làm rung chuyển không chỉ bộ máy cai trị của
thực dân ở Nam Kỳ mà còn ảnh hưởng trên phạm vi cả nước. Tuy diễn ra trong một
thời gian ngắn, nhưng đây là một cuộc khởi nghĩa rộng lớn và mạnh nhất kể từ khi
Pháp xâm lược nước ta. Trong cơn bão táp cách mạng, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao
vàng biểu tượng của tinh thần đoàn kết và lòng quyết tâm giải phóng dân tộc của
toàn dân Việt Nam, đã được giương cao ở nhiều vùng thuộc Mỹ Tho, Vĩnh Long, Gia
Định, Bạc Liêu…
Cuộc đấu tranh
yêu nước, kiên cường bất khuất của nhân dân cuối cùng đã giành được thắng lợi
vẻ vang trong Cách mạng tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
(2/9/1945). Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám trước hết là thắng lợi của
tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân và các dân tộc Việt Nam vì mục
tiêu độc lập và thống nhất đất nước.
Trong suốt quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, khối đoàn kết liên
tục được củng cố và phát triển. Trong khối đoàn kết dân tộc đó, người Khmer Nam
Bộ đã có những đóng góp xứng đáng. Trong những năm 1930 - 1931, các Hội tương
tế ái hữu, Nông hội, Cứu tế đỏ.. do Đảng tổ chức và lãnh đạo đã thu hút được
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó có người Khmer. Các phong trào
đòi bỏ sưu, hoãn thuế, giảm tô, vay lúa chia cứu đói cho người nghèo đã đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo đồng bào Khmer. Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940
có sự góp sức của không ít chiến sĩ người Khmer. Khi khởi nghĩa thất bại, nhiều
chiến sĩ người Khmer đã bị chính quyền thực dân tàn sát. Trong quá trình tiến
tới Cách mạng Tháng Tám, chương trình Việt Minh dưới nhiều hình thức, với nội
dung ngắn gọn như “Đất nước độc lập”, “Dân tộc bình Đẳng”,“Người
cày có ruộng”, “Tự do tín ngưỡng” đã đáp ứng được tâm tư
và nguyện vọng của đồng bào Khmer. Trong thành phần Ủy ban Việt Minh các cấp
không ít trí thức, sư sãi Khmer được đảm nhiệm những chức vụ quan trọng. Điều
này cho thấy, trong cuộc đấu tranh chung chống kẻ thù xâm lược, ý thức của đồng
bào Khmer về vị trí và trách nhiệm của mình trong Quốc gia và Dân tộc Việt Nam
ngày càng được nâng cao.
Độc lập chưa
bao lâu, nhân dân ta lại phải chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp, mở
màn bằng việc Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Để giữ gìn nền độc lập còn non trẻ, bảo
vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân cả nước ta, trong đó có nhân
dân Nam Bộ, lại một lần nữa đứng lên “quyết hy sinh kháng chiến để giữ
vững nền độc lập của nước nhà”.
Cuộc kháng
chiến của nhân dân Nam Bộ ngay lập tức đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân
dân cả nước. Ngày 26/9/1945, 3 ngày sau khi Pháp nổ súng ở Sài Gòn, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra lời kêu gọi gởi đồng bào Nam Bộ khẳng định quyết tâm kháng chiến
của Đảng, Chính phủ và toàn dân Việt Nam. Lời kêu gọi nhấn mạnh: “Chính
phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang
hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”. Cùng ngày, chi đội
đầu tiên gồm 3 đai đội chiến sĩ tình nguyện của các tỉnh phía Bắc đã lên đường
vào Nam cùng nhân dân Nam Bộ kháng chiến, mở đầu cho phong trào Nam tiến đưa
hàng vạn thanh niên miền Bắc vào Nam chống xâm lược Pháp.
Về mặt nhà
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho những người đứng đầu các
nước Đồng Minh nêu rõ chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với Nam Bộ. Trong các
cuộc đàm phán đi đến ký kết hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9/1946, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không ngừng đòi Pháp trao trả lại Nam Kỳ cho Việt
Nam. Tháng 7/1946, tại Pa-ri, bên lề của Hội nghị Phông-ten-bơ-lô (Fontainebleau),
Hồ Chủ tịch đã tuyên bố: “Nam Bộ là đất Việt Nam. Nó là thịt của thịt
chúng tôi, là máu của máu chúng tôi. Trước khi đảo Cooc-sơ (Corse) trở thành
đất của Pháp, thì Nam Bộ đã là đất Việt Nam”. Ngày 19/12/1946 Hồ Chủ tịch
raLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cả 3 miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam
bước vào cuộc kháng chiến thần thánh vì độc lập và thống nhất đất nước.
Trước sự lớn
mạnh của lực lượng kháng chiến và để đối phó với dư luận quốc tế, từ cuối năm
1947 chính phủ Pháp đã dựng lên “Quốc gia Việt Nam” (Etat du VietNam) do Bảo
Đại đứng đầu. Ngày 8/3/1949, Tổng thống Pháp V.Ô-ri-ôn đã ký với Quốc trượng
Bảo Đại Hiệp ước Ê-ly-dê (Elysée), theo đó Pháp chính thức trả lại Nam Kỳ cho
quốc gia Việt Nam và công nhận sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngay sau sự kiện này, một loạt quốc gia phương Tây, trong đó có Anh và Mỹ đã
công nhận quốc gia Việt Nam. Phù hợp với Luật pháp Quốc tế, Hiệp ước Ê-ly-dê
(Elysée) đươc coi là văn kiện pháp lý có giá trị pháp lý cho việc thu hồi lại
vùng đất Nam Kỳ mà trước đó theo các Hiệp ước 1862 và 1874 Triều Nguyễn đã ký
nhường cho Pháp.
Nhằm thực hiện
Hiệp ước Ê-ly-dê (Elysée), ngày 9/3/1949, Đại hội đồng khối Liên hiệp Pháp đã
thảo luận về Dự luật đưa Nam Kỳ - một “lãnh thổ hải ngoại của Pháp”, trả lại
cho “Quốc gia Việt Nam”. Tại Hội nghị này, chính quyền Căm-pu-chi-a tìm cách
vận động Chính phủ Pháp giúp thực yêu sách lãnh thổ đối với vùng đất Nam Bộ của
Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu này của phía Cam-pu-chi-a đã không được phía Pháp
chấp thuận. Ngày 4/6/1949, Pháp đã thông qua luật 49 – 733 kết thúc tiến trình
trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam, vĩnh viễn chấm dứt Quy chế “lãnh thổ hải ngoại
của Pháp” đối với vùng lãnh thổ này.
Về yêu sách của
chính quyền Cam-pu-chi-a đối với vùng đất Nam Bộ, ngày 8/6/1949, chính phủ Pháp
đã gửi một bức thư cho Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, trong đó nêu rõ:
“Ngoài
những lý do thực tiễn, những lý do về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính
phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cam-pu-chi-a để sửa lại các
đường biên giới của Nam Kỳ. Quốc Vương hẳn cũng biết rằng Nam Kỳ đã được
An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước 1862 và 1874… Chính từ triều đình Huế
mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… Về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để
thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ… Lịch
sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều
đình Khmer lúc Pháp tói. Giữa những ví dụ khác, xin phép nhắc lại rằng Hà Tiên
đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà
Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước
khi chúng tôi đến”.
Với bức thư nêu
trên, Pháp không chỉ thừa nhận một thực tế lịch sử chứng tỏ người chủ thực sự
của vùng đất Nam Bộ là Nhà nước Việt Nam, mà còn nêu lại một lần nữa cơ sở pháp
lý khẳng định vùng đất Nam Bộ là thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trước khi Pháp
đặt chân đến Nam Kỳ.
5
GIAI
ĐOẠN
TỪ
NĂM 1954 TỚI NAY
Sau một thời
gian đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, có sự
tham gia của một số nước, trong đó có các cường quốc như Liên Xô, Trung Quốc,
Hoa Kỳ, ngày 20/7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã
được ký kết. Sự kiện lịch sử quan trọng này không chỉ đánh dấu thắng lợi vẻ
vang của nhân dân Việt Nam chống lại chiến tranh xâm lược của thực dân cũng như
sự can thiệp của các thế lực thù địch, mà còn là mốc lịch sử ghi nhận việc Pháp
cùng các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ trịnh trọng thừa nhận, cam kết tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Điều 11 của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam quy
định:
“Theo
nguyên tắc ngừng bắn đồng thời khắp toàn cõi Đông Dương, việc đình chỉ chiến sự
phải đồng thời trên toàn cõi Việt Nam, tại tất cả các chiến trường và cho tất
cả các lực lượng của cả hai bên.
Tính
theo thời gian thực sự cần thiết để truyền lệnh ngừng bắn tới những cấp thấp
nhất của lực lượng chiến đấu đôi bên, hai bên đồng ý sẽ thực hiện ngừng bắn
hoàn toàn và đồng thời, theo từng khoảnh lãnh thổ trong những điều kiện sau
đây:
-
Ở Bắc Bộ Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày hai mươi bẩy (27) tháng bẩy (7)
năm 1954.
-
Ở Trung Bộ Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày mồng một (1) tháng tám (8)
năm 1954.
-
Ở Nam Bộ Việt Nam, đúng 8 giở (địa phương) ngày mười một (11) tháng tám (8) năm
1954”.
Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương cũng
khẳng định:
“11.
Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp theo hướng là để giải quyết mọi
vấn đề liên quan đến việc cũng cố và thiết lập lại hòa bình ở Cam-pu-chi-a, Lào
và Việt Nam, Chính phủ Pháp sẽ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cam-pu-chi-a, Lào và Việt Nam.
12.
Trong mối quan hệ của mình, Cam-pu-chi-a, Lào và Việt Nam, mỗi nước thành viên
Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia nói trên và kiềm chế trong bất cứ
việc nào can thiệp đến công việc nội bộ của họ”.
Như vậy, theo
Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương, Việt
Nam chỉ tạm thời để lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp tập kết tại những nơi
phía Nam giới tuyến đó trong thời gian đình chiến, trước khi hoàn toàn rút khỏi
Việt Nam. Cam-pu-chi-a, Lào và các nước tham gia Hội nghị đều cam kết tôn trọng
chủ quyền, độc lập, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm cả vùng đất Nam
Bộ.
Nhưng đế quốc
Mỹ đã ngang nhiên can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc Việt Nam, dựng lên
chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ,
với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.
Trong thời gian
đất nước bị chia cắt, đã xảy ra nhiều xung đột, tranh chấp biên giới giữa chính
quyền Sài Gòn và Cam-pu-chi-a. Trong tình hình đó, các chính quyền khác nhau
của Nhà nước Cam-pu-chi-a và Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc đã nhiều lần tuyên
bố (năm 1964, 1967) thừa nhận và tôn trọng đường biên giới hiện tại giữa Cam-pu-chi-a
với các nước láng giềng, được thể hiện trên các bản đồ do Sở Địa dư Đông Dương
(Service Géographique de Í Indochine) ấn hành trước Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954.
Ngày 3/3/1964
ông Huốt Sam-bat (Huot Sambath), Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao của Chính
p;hủ Cam-pu-chi-a gửi cho Ngoại trưởng Mỹ Đin Rat-cơ (Dean Rusk) một dự
thảo “Tuyên bố về nền trung lập của Cam-pu-chi-a” và dự thảo “Nghị
định thư” về Tuyên bố này. Trong dự thảo có đọan nêu rõ ranh giới hiện nay
của Vương quốc Cam-pu-chi-a với Việt Nam là “đường biên giới trên các bản đồ tỷ
lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Service Géographique de Í Indochine) sử
dụng trước các Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954”.
Ngày 20/6/1964,
Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc gửi thư cho Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ, mong muốn
gặp gỡ Chủ tịch để trao đổi ý kiến về vấn đề biên giới. Trong thư, Quốc vương
Nô-rô-đôm Xi-ha-núc khẳng định: ”Chúng tôi từ bỏ mọi đòi hỏi về vấn đề đất
đai để đổi lấy một sự công nhận rõ ràng đường biên giới hiện tại và chủ
quyền của chúng tôi đối với các đảo ven biển mà Chính phủ Sài Gòn đã đòi
hỏi một cách phi pháp”.
Ngày 18/8/1964,
Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc một lần nữa lại gửi thư cho Chủ tịch Nguyễn Hữu
Thọ, khẳng định “về phần mình, Cam-pu-chi-a chỉ đòi hỏi sự công nhận đường
biên giới hiện tại trên đất liền của mình như được vẽ trên các bản đồ thông
dụng đến năm 1954 và sự công nhận chủ quyền của Cam-pu-chi-a đối với các đảo
ven bờ mà chế độ sài Gòn đã đòi hỏi mà không có một chút lý lẽ gì để biện hộ
được”.
Ngày 9/5/1967,
Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chi-a ra tuyên bố kêu gọi các nước tôn trọng toàn
vẹn lãnh thổ Cam-pu-chi-a trong đường biên giới hiện tại. Đáp lại lời kêu gọi
của Cam-pu-chi-a, ngày 31/5/1967 và 8/6/1967 Ủy ban Trung ương Mặt trận giải
phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa đã lần lượt ra
tuyên bố thừa nhận và cam kết tôn trọng đường biên giới hiện tại của
Cam-pu-chi-a.
Đến cuối năm
1968, đã có 34 nước, trong có Bỉ, Pháp, Tây-ban-nha, I-ta-li-a và Hà Lan, ra
tuyên bố tôn trọng độc lập chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Vương
quốc Cam-pu-chi-a trong các đường biên giới hiện tại. Ngày 16/4/1968, Chính phủ
Mỹ tuyên bố: “Theo Hiến chương Liên hợp quốc, Mỹ công nhận và tôn trọng chủ
quyền, nền độc lập, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Vương quốc Cam-pu-chi-a
trong các đường biên giới hiện tại”. Tuyên bố của Ôx-trây-li-a ngày
21/2/1968 cũng có nội dung tương tự.
Thực hiện lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31/5/1946, “Đồng bào Nam Bộ là
dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao
giờ thay đổi”, các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên đấu
tranh kiên cường chống lại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ để giải phóng
miền Nam Việt Nam.
Trong cuộc đấu
tranh đầy hi sinh, gian khổ này, quân và dân vùng đất Thành đồng Tổ Quốc đã
nhận được sự chi viện lớn lao của nhân dân cả nước. Với những khẩu hiệu “Vì
miền Nam thân yêu”, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”…, hàng trăm ngàn thanh niên nam nữ thuộc đủ
các dân tộc sinh sống tại miền Bắc và miền Trung đã lên đường vào Nam chiến
đấu. Không ít người trong số này đã vĩnh viễn nằm lại ở mạnh đất phía Nam của
Tổ quốc…
Trước nguy cơ
thất bại hoàn toàn, ngày 27/1/1973, với sự chứng kiến của tất cả các nước tham
gia Hội nghị Pa-ri, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam đã được ký kết, một lần nữa khẳng định: “Mỹ và các quốc gia khác tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã
được công nhận trong Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam” (Điều 1). Mỹ
cam kết rút toàn bộ lực lượng của mình khỏi miền Nam Việt Nam. Hai miền Nam,
Bắc Việt Nam sẽ tiến tới bầu cử thống nhất đất nước.
Tháng 4/1975,
với đại thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam Việt Nam đã hoàn
toàn được giải phóng và trên thực tế cả nước đã được thống nhất. Chưa kịp hưởng
trọn niềm vui Bắc – Nam sum họp một nhà, nhân dân Việt Nam đã buộc phải cầm
súng đánh lại cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới Tây Nam trong những năm 1977 –
1978, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc.
Như vậy, bằng
bao xương máu, hy sinh, nhân dân Nam Bộ và cả nước đã đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ, giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
thống nhất giang sơn. Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, biết bao thế
hệ và hàng triệu người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã đổ máu hy sinh để bảo
vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trước mọi âm mưu xâm chiếm hoặc
chia cắt đất nước, dù chỉ là một tấc đất, trong đó có vùng đất Nam Bộ, toàn thể
cộng đồng dân tộc Việt Nam đều không tiếc máu xương cầm súng đứng lên bảo vệ
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Sau khi đất
nước được thống nhất, non sông thu về một mối, thực hiện chính sách hòa bình,
hữu nghị với các nước láng giềng, Việt Nam đã tiến hành đàm phán nhằm xác định
rõ ràng đường biên giới với các nước láng giềng, trong đó có Cam-pu-chi-a.
Theo Hiệp ước
hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hòa nhân dân Cam-pu-chi-a, ký ngày 18/2/1979, Điều 4 có ghi: “Hai Bên cam
kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hòa bình tất cả những bất đồng có thể nảy
sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai Bên sẽ đàm phán để ký kết một Hiệp ước
hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện
tại, quyết tâm xây dựng đường biên giới này thành biên giới hòa bình, hữu nghị
lâu dài giữa hai nước”.
Trong các năm
đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, sau một thời gian đàm phán hữu nghị, khách quan,
công bằng, Việt nam và Cam-pu-chi-a đã ký một số Hiệp ước và Hiệp định về vấn
đề biên giới giữa hai nước.
Về biên giới
trên đất liền, Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chi-a, ký ngày
20/7/1983, Điều 1 quy định:
“Trên đất
liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản
đồ theo tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Service Géographique de Í
Indochine), thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh
bản đồ được hai bên xác nhận), là đường biên giới quốc gia giữa hai nước.
Ở
nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ, hoặc hai Bên đều thấy chưa
hợp lý thì hai Bên sẽ cùng nhau bàn bạc giải quyết trên tinh thần bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Cam-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế”.
Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia giữ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
nhân dân Cam-pu-chi-a, ký ngày 27/12/1985, đã hoạch định toàn bộ đường biên
giới trên đất liền giữa Việt nam và Cam-pu-chi-a trên cơ sở tuân thủ nghiêm
chỉnh nguyên tắc đã được quy định trong Hiệp ước năm 1983.
Nội dung hai
hiệp ước năm 1983 và 1985 nêu trên không chỉ phù hợp với thực tế khách quan về
đường biên giới giữa Việt nam và Cam-pu-chi-a, mà còn phù hợp với ý chí và
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và nhân dân Cam-pu-chi-a. Sau khi Hiệp định
Pa-ri về Cam-pu-chi-a được ký kết năm 1991, năm 1993 Quốc hội của Vương quốc Cam-pu-chi-a
đã thông qua Hiến pháp mới, Điều 2 của Hiến pháp khẳng định: “Toàn vẹn lãnh
thổ Vương quốc Cam-pu-chi-a không thể bị vi phạm trong đường biên giới của mình
đã được xác định trong bản đồ tỷ lệ 1/100.000, làm giữa những năm 1933 – 1953
và được quốc tế công nhận giữa những năm 1963 – 1969”. Đường biên giới của
Vương quốc Cam-pu-chi-a mà Hiến pháp 1993 nêu ra phù hợp với nguyên tắc được
quy định tại Điều 1 Hiệp ước 1963 và đã được cụ thể hóa trong Hiệp ước hoạch
định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Cam-pu-chi-a năm 1985.
Phù hợp với quy
định trong Hiến pháp của Vương quốp Cam-pu-chi-a ngày 10/10/2005, nhân chuyến
thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Thủ tướng Chính
phủ Hoàng gia Cam-pu-chi-a, Thủ tướng chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước bổ sung
Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985. Hiệp ước bổ sung đã được Quốc hội của
Cam-pu-chi-a và Việt Nam phê chuẩn ngay sau đó. Hiệp ước bổ sung đã một lần nữa
khẳng định giá trị pháp lý của đường biên giới được hoạch định năm 1985 và thúc
đẩy quá trình phân giới, cắm mốc đường biên giới giữa hai nước trên thực địa.
Để bảo đảm việc
phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền hoàn tất chậm nhất vào
cuối năm 2008, ngay sau khi Hiệp ước bổ sung có hiệu lực, chính phủ và các cơ
quan chức năng của hai nước đã nỗ lực phối hợp và triển khai công tác chuẩn bị
cho việc phân giới cắm mốc. Ngày 7/9/2006, đại diện chính phủ Việt nam và
Cam-pu-chi-a đã tiến hành khởi công xây dựng cột mốc quốc tế đầu tiên tại cửa
khẩu Mộc Bài (Việt Nam) – Bà Vẹt (Cam-pu-chi-a) và lễ khánh thành cột mốc này
đã được tổ chức ngày 27/9/2006 với sự tham dự của Thủ tướng chính phủ và lãnh
đạo cấp cao hai nước. Phát biểu tại lễ khánh thành, cả hai Thủ tướng đều nhấn
mạnh ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, coi đây là một bước phát triển mới trong
quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa hai nước, đánh dấu sự khởi động lại
quá trình phân giới cắm mốc giữa hai nước nhằmn xây dựng một đường biên giới
hòa bình, ổn định, hữu nghị giữa hai nước.
Như vậy, khát
vọng lâu đời của nhân dân Việt Nam và Cam-pu-chi-a về việc có đường biên giới
hòa bình, hữu nghị và ổn định giữa hai nước (trong đó có đường biên giới giữa
Nam Bộ của Việt Nam với Cam-pu-chi-a ) đã trở thành hiện thực.
6
CỘNG
ĐỒNG CÁC CƯ DÂN
TRÊN
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
Ngày nay, trên
toàn thế giới có hơn 3.000 tộc người sinh sống, nhưng chỉ có khoảng 200 quốc
gia. Điều này chứng tỏ một sự thật hiển nhiên là không gian tộc người không
hoàn toàn đồng nhất với phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong lãnh thổ của một quốc
gia có thể gồm nhiều tộc người sinh sống và một tộc người có thể sinh sống trên
lãnh thổ của nhiều quốc gia.
Đông Nam Á là
khu vực giao thoa văn hóa và hỗn dung tộc người. Về đại thể các nhà ngôn ngữ
học cho rằng khu vực Đông Nam Á có 4 ngữ hệ chính là: Nam Á (trong đó có Việt -
Mường, Môn - Khmer, Mông - Dao) Mã Lai - Đa Đảo, Thái (hay Thái - Kadai) và Hán
- Tạng. Trong khi đó, theo các nhà dân tộc học, bức tranh phân bố tộc người
trong khu vực này phức tạp hơn rất nhiều. Đây là nơi tập trung hàng trăm tộc
người, phân bố trên 11 quốc gia. Chỉ riêng In-đô-nê-xi-a đã có khoảng 300 tộc
người sinh sống trên 13 ngàn hòn đảo. Ở Lào có khoảng gần 40 tộc người sinh
sống. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phân bố các dân tộc người ở khu vực Đông
Nam Á có những đặc điểm nổi bật sau:
- Các tộc người
được phân bố xen kẽ với nhau trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trong đó tộc
người chiếm đa số về số lượng thường giữ vai trò chủ thể, có địa vị kinh tế,
chính trị cao hơn các tộc người còn lại.
- Các cuộc di
chuyển tộc người thường vượt quá phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Do vậy, hiện
tượng có những tộc người sinh sống ở nhiều quốc gia là khá phổ biến. Ví dụ,
người Thái hiện có mặt ở Thái Lan, Lào, Nam Trung Quốc, Việt Nam…; trong khi đó
trên đất của Thái Lan lại có rất nhiều người Lào sinh sống; cũng như người
Ma-lay-u sinh sống ở Ma-lay-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan; người Khmer sinh
sống ở Căm-pu-chi-a, Việt Nam, Thái Lan, Pháp, Ôt-xtơ-ra-li-a, Mỹ…
- Mỗi một tộc
người có nguồn gốc lịch sử và những đặc trưng riêng về văn hóa, ngôn ngữ, phong
tục tập quán và ý thức tự giác tộc người. Nhưng một khi đã là một bộ phận dân
tộc của một quốc gia nhất định thì mọi tộc người đều có các quyền và nghĩa vụ
bình đẳng như nhau của công dân theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, không
gian tộc người và lãnh thổ quốc gia là hai khái niệm khác nhau và việc một quốc
gia có nhiều tộc người và một tộc người sống ở nhiều quốc gia, hòa mình vào các
cộng đồng các tộc người ở quốc gia ấy là hiện tượng bình thường và phổ biến ở
khu vực Đông Nam Á.
Nam Bộ, theo
cách phân chia khu vực hiện nay, bao gồm hai miền Đông và Tây. Miền Đông Nam Bộ
bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Miền Tây Nam Bộ (quen gọi là đồng bằng sông Cửu
Long) bao gồm 13 tỉnh, thành: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Vĩnh
Long, Bến Tre, Kiên Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Theo Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 1999, miền Đông Nam Bộ có 12.707.950 người,
miền Tây Nam Bộ có 16.130.675 người.
Cư dân Nam Bộ
có nguồn gốc rất đa dạng, phong phú. Đại diện cho lớp cư dân lâu đời là người
Mạ, người Xtiêng, người Chơ Ro, tiếp theo sau là người Khmer, người Chăm, người
Việt, người Hoa…
Người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ước khoảng 1.300.000 người, tập trung nhiều
nhất ở các tỉnh Sóc Trăng (khoảng 400 ngàn), Trà Vinh (khoảng 320 ngàn), Kiên
Giang (khoảng 204 ngàn), An Giang (khoảng 85 ngàn), Bạc Liêu (khoảng 60 ngàn),
Cần Thơ (khoảng 39 ngàn), Cà Mau (khoảng 24 ngàn), Vĩnh Long (khoảng 21 ngàn)
v.v…
Người Chăm ở
đồng bằng sông Cửu Long không nhiều, chỉ khoảng 14 ngàn người.
Từ đầu thế kỷ
XVII, những người Việt ở Miền Trung, miền Bắc đã vào vùng Đồng Nai, Gia Định
khai phá đất hoang, sinh cơ lập nghiệp. Cùng với người Khmer và những cư dân đã
có mặt ở vùng đất Nam Bộ trước đó, họ đã nhanh chóng thích nghi, hòa nhập và
trở thành bộ phận dân cư chủ đạo trong công cuộc chinh phục này. Hiện nay, cư
dân Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất trong khu vực. Theo thống kê dân số năm 1999, ở
miền Tây Nam Bộ, người Việt (Kinh) có 14.884.000 người, chiếm 92,3% dân số toàn
vùng, phân bố đều khắp trong tất cả các tỉnh.
Vào nửa sau thế
kỷ XVII, có những đợt di dân lớn từ miền Nam Trung Hoa đến đây do những biến
động chính trị sau khi Mãn Thanh đánh bại Nhà Minh. Hiện tại, số người Hoa
chủ yếu sống tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh (khoảng trên 400 ngàn) và các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 200 ngàn).
Cùng với quá
trình phát triển, bức tranh tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long càng trở nên đa
dạng, phong phú thêm bởi sự có mặt của nhiều tộc người khác như: Tày, Thái,
Nùng, Dao, Ngái, Mường, Mnông v.v…
Gắn bó mật
thiết với mảnh đất mà họ coi là quê hương của mình, cư dân các tộc người luôn
sống hòa thuận, chia sẻ mọi thuận lợi và khó khăn với các tộc người khác trong
khu vực.
Cùng với sự đa
dạng về tộc người và như là hệ quả tất yếu của quá trình giao thoa và hỗn dung
văn hóa, Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng là một khu vực hết sức
đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Ở đây có đầy đủ 6 tôn
giáo lớn ở nước ta là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo,
Hồi giáo và là khu vực đứng đầu trong cả nước về số lượng tín đồ tôn giáo.
Ngoài các tôn giáo kể trên, cư dân trong vùng còn theo một sô tín ngưỡng khác
như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh Độ Cư sĩ…
Nam Bộ nói
chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng có một diện mạo văn hóa hết sức đa
dạng. Nếu như người Việt có những làng điệu cải lương hay câu hò, điệu lý thì
người Khmer lại thể hiện bản sắc của mình trong điệu múa roăm-vuông, hát đối
đáp Aday hay nhịp trống Chay-dăm. Nếu như người Chăm có những hoạt động nghệ
thuật sôi động trong những ngày kết thúc tháng Ramadan, sinh nhật Muhammed hoặc
các dịp hôn nhân, cưới hỏi thì người Hoa lại góp vào đời sống văn hóa Nam Bộ
những câu hát Tiều, hát Quảng v.v… Những điểm riêng đặc sắc đó của mỗi tộc
người ngày một phát triển và hội nhập vào nhau, tạo nên nét đặc trưng không thể
trộn lẫn của văn hóa vùng Nam Bộ, tạo nên tính cách chung của con người Nam Bộ
trọng nghĩa, khinh tài, phóng khoáng và hiếu khách…
Và vượt lên
trên tất cả là từ rất sớm các cộng đồng dân cư Nam Bộ đã có truyền thống đoàn
kết, đùm bọc lẫn nhau, không phân biệt người đến trước, người đến sau, không kỳ
thị dân tộc. Truyền thống quý báu này được hình thành và phát triển trong nhiều
thế kỷ chung lưng đấu cật với nhau khai phá phát triển vùng đất Nam Bộ trước
đây và trong quá trình đấu tranh chống áp bức của phong kiến và thực dân sau
này. Cũng cần nói thêm rằng, nếu như nhu cầu khai khẩn vùng đất mới đã tạo điều
kiện hình thành sự đoàn kết của cộng đồng thì yếu tố làm cho sự đoàn kết đó trở
thành một giá trị lâu bền chính là ý thức dân tộc, là tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn gắn bó với mảnh đất yêu quý của họ, là yêu cầu của sự sống còn trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung của cả dân tộc.
Nam Bộ là một
khu vực bao gồm nhiều dân tộc, cư dân trong vùng theo nhiều tôn giáo, tín
ngưỡng khác nhau, nhưng các cộng đồng dân cư ở đây không tồn tại biệt lập theo
từng không gian văn hóa dân tộc người riêng rẽ mà sống xen kẽ nhau cùng trong
một đơn vị hành chính. Điều kiện cộng cư này làm cho các dân tộc có điều kiện
tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Trong quá trình tiếp xúc, các dân tộc vừa giao lưu
vừa tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhau để làm giàu thêm bản sắc văn hóa
vốn có của mình.
Các tộc người
sống ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Trong công cuộc
khẩn hoang để khai phá đất đai và phát triển nghề trồng lúa nước cũng như trong
cuộc sống, ảnh hưởng và giao lưu văn hóa giữa các tộc người diễn ra thường
xuyên. Từ công cụ sản xuất, nhà ở đến cách ăn mặc, nếp sống, lễ nghi… đều có
thể tìm thấy sự đan xen giữa các truyền thống văn hóa. Trong quá trình đó,
người Việt cũng tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khmer. Chiếc khăn rằng của người
Khmer Nam Bộ đã trở nên phổ biến và trở thành một biểu trưng quen thuộc của
người Nam Bộ nói chung. Hiện tượng hôn nhân hỗn huyết giữa Việt – Khmer, Việt –
Hoa hay Khmer - … diễn ra khá phổ biến. Tiếng Việt được hầu hết các tộc người
sử dụng trong giao tiếp xã hội hoặc trong giao dịch hành chính.
Truyền thống
tốt đẹp này được thể hiện rõ nét nhất trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ xâm lược trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước ngày nay.
Ngay sau khi
thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, nhất là sau khi ba tỉnh miền Đông (1862) và ba
tỉnh miền Tây Nam Bộ (1867) rơi vào tay thực dân Pháp, nhân dân Nam Bộ, không
phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa phương, vùng miền, đã đoàn kết một lòng, nhất
tề đứng lên kháng chiến. Mở đầu cho truyền thống đoàn kết đấu tranh của các dân
tộc Nam Bộ là sự ủng hộ và trực tiếp tham gia chiến đấu của người Khmer trong
cuộc khởi nghĩa của Trương Quyền (con trai Trương Định) và nhà sư yêu nước
Pokumpô tổ chức và lãnh đạo. Nghĩa quân Việt – Khmer đã xây dựng nhiều căn cứ
kháng chiến ở vùng rừng núi Tây Ninh, dọc theo biên giới Việt Nam –
Cam-pu-chi-a. Tiếp theo đó là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Thạch
Put đánh chiếm thị xã Rạch Giá (năm 1868)… Lịch sử còn ghi nhớ cuộc khởi nghĩa
của một số nông dân người Khmer và người Việt dưới sự lãnh đạo của Chủ Chọt và
Som Dach Nhum chống lại thực dân Pháp và tay sai ở làng Ninh Thạnh Lợi, tỉnh
Bạc Liêu (Sơn Dach Nhum là người Khmer Nam Bộ, còn Chủ Chọt mang dòng máu Việt
– Hoa và Khmer). Nhân dân Nam Bộ cũng không quên cuộc nổi dậy của nông dân
người Khmer và nông dân người Việt ở cánh đồng Nọc Nạn chống thực dân Pháp.
Sau khi ra đời,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đoàn kết các dân tộc anh em cùng chung sống
trên lãnh thổ Việt Nam, trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ lẫn nhau, vì độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Với chính sách dân tộc
đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam, truyền thống đoàn kết và đấu tranh cách
mạng của các dân tộc ở Nam Bộ càng được phát huy cao độ và có bước chuyển biến
mới về chất. Người Việt, Khmer, người Chăm, người Hoa ngày càng giác ngộ một
cách sâu sắc rằng vận mệnh của tộc người mình gắn liền với vận mệnh chung của
cả nước, quyền lợi của mỗi tộc người chỉ có thể được bảo đảm trên cơ sở bảo vệ
được quyền lợi chung của cả dân tộc Việt Nam. Vì thế, nhiều nơi ở Nam Bộ, nông
dân người Khmer và nông dân người Việt bất chấp mọi thủ đoạn kích động, xúi
giục, chia rẽ của thực dân Pháp đã cùng nhau làm lễ ăn thề quyết tâm đoàn kết
dân tộc, vì mục tiêu chung là chống thực dân Pháp xâm lược. Nhiều tỉnh ở Nam Bộ
có đông đồng bào người khmer sinh sống đã thành lập các hội Issarak hoặc Hội
ủng hộ Issarak nhằm tổ chức và động viên nhân dân tham gia kháng chiến chống
Pháp. Ở một số tỉnh có nhiều đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống cũng đã tổ chức
các Ban Miên vận và đội võ trang tuyên truyền liên quân Miên – Việt v.v..
Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ phong trào đồng khởi năm 1960 đến cuộc tổng
tiến công Mùa xuân Mậu Thân năm 1968 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử năm 1975, đồng bào các dân tộc ở Nam Bộ liên tục phát huy truyền thống đoàn
kết đấu tranh của mình. Trong cuộc đấu tranh anh dũng này, cùng với các dân tộc
anh em khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đồng bào người Khmer Nam
Bộ đã có những cống hiến to lớn về sức người, sức của và hy sinh cả xương máu
của mình, nhiều người đã trở thành anh hùng, liệt sĩ. Nhiều phụ nữ người Khmer
Nam Bộ đã hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc như
anh hùng Danh Thị Tơi, liệt sĩ Thạch Thị Thanh, nhiều người đã được phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nhiều người con ưu tú của đồng bào Khmer Nam
Bộ đã trở thành các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, nhà nước qua các thời kỳ
như Maha Sơn Thông, Khu ủy viên, Trưởng ban Khmer vận khu Tây Nam Bộ, Ủy viên
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội
đồng Dân tộc Quốc hội; Huỳnh Cương, Chủ tịch Mặt trân Dân tộc giải phóng khu
Tây Nam Bộ, Cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hóa miền Nam Việt Nam, Ủy
viên Trung ương Đảng khóa VIII, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Trưởng ban Dân tộc
Trung ương Đảng, Hòa thượng Sơn Vọng, Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam, Phó Chủ tịch ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới miền Nam Việt Nam; Hòa
thượng Hữu Nhem, Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, Phó Chủ
tịch ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới miền Nam Việt Nam v.v.. Nhiều ngôi chùa
Khmer trở thành các cơ sở cách mạng. Nhiều vị cao tăng, trí thức người Khmet
Nam Bộ đã cống hiến cả cuộc đời cho đạo pháp và công cuộc kháng chiến cứu nước.
Ngày nay, trong
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cộng đồng cư dân các dân tộc Nam Bộ càng đoàn kết gắn bó với
nhau. Đảng và Nhà nước luôn thực thi chính sách bình đẳng giữa các dân tộc,
quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư các dân tộc,
đã có nhiều chính sách, giải pháp cụ thể để phát triển vùng dân tộc, vùng sâu
vùng xa. Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
68-CT/TW “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer” nhằm phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh chính trị ở các tỉnh có đồng bào Khmer
sinh sống. Chỉ thị cũng nêu rõ vai trò quan trọng của chùa chiền, sư sãi trong
đời sống dân tộc Khmer, đồng thời yêu cầu nghiên cứu mở rộng trường Pali cho
các sư sãi. Chỉ thị đi vào cuộc sống đã đáp ứng những nguyện vọng chính đáng
của cán bộ và nhân dân và tạo nên sự chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội,
ổn định quốc phòng và an ninh trong các vùng có người Khmer sinh sống.
Để hộ trợ cho
các vùng gặp khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi quá trình phát triển kinh tế -
xã hội ở các vùng này, ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội
các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”. Với Chương
trình 135 nhiều địa phương thuộc diện đặc biệt khó khăn, trong đó có những xã
nghèo thuộc Nam Bộ đã từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu.
Cùng với những
chủ trương phát triên kinh tế - xã hội, ngày 03/12/1998, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chỉ thị số 39/1998/CT-TTg về việc “Đẩy mạnh công tác văn hóa
thông tin ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số” góp phần nâng cao đời
sống văn hóa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng dân tộc thiểu số,
miền núi trong thời kỳ mới. Nhằm tăng cường nguồn lực cho việc thực hiện các
chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Chính phủ đối với các vùng còn gặp nhiều
khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg về “Định
mức phân bổ ngân sách nhà nước năm 2004” theo đó, các địa phương miền
núi, vùng đồng bào dân tộc có nhiều khó khăn được ưu tiên phân bổ ngân sách nhà
nước.
Những chính
sách phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của Đảng, Chính phủ đã đem lại
những hiệu quả tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc thiểu
số - trong đó có người Khmer Nam Bộ, ngày một nâng cao.
- Về kinh tế:
từ năm 2001 đến nay, Đảng và Nhà nước bằng các nguồn vốn Trung ương và địa
phương đã đầu tư trên 1.000 tỉ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến nay, 80% số hộ
dân có phương tiện nghe nhìn, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,66% năm 2001 xuống còn
28,11% và đến năm 2004 không còn hộ đói.
- Về văn hóa –
giáo dục: hầu hết các tỉnh có người Khmer sinh sống đều có chương trình phát
thanh, truyền hình bằng tiếng Khmer. Nhân dân, sư sãi được tạo điều kiện trùng
tu, xây dựng 108 chùa, thư viện, sa la và các phòng học, xây dựng 5 tháp tưởng
niệm cán bộ, sư sãi có công với cách mạng. Các tỉnh đều tổ chức cho các chùa
dạy bổ túc văn hóa song ngữ, giảng dạy chữ Khmer, Pali cho nhân dân và sư sãi.
Một số tỉnh miễn 100% học phí và đóng góp xây dựng trường cho học sinh Khmer ở
các cấp học. Các chùa Khmer còn được tạo điều kiện nhập và phát hành kinh phật
phục vụ cho việc hành đạo. Trong thời gian qua, 6 bộ kinh với tổng số 13.600
quyển đã được in và cấp cho các chùa.
- Về chăm sóc
sức khỏe: Tại các xã có người Khmer đều có trạm y tế. Toàn vùng đồng bằng sông
Cửu Long hiện có 167 bác sĩ và 436 y sĩ là người dân tộc Khmer. Thực hiện
Chương trình 139, đến nay hầu hết hộ Khmer nghèo đều được cấp sổ khám chữa bệnh
miễn phí. Đặc biệt, tại tỉnh Trà Vinh bệnh viện đa khoa tỉnh còn dành riêng
phòng để khám và điều trị bệnh cho sư sãi.
Hòa cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của đất nước, cư dân Nam Bộ luôn ý thức rằng dù là dân tộc
nào cũng đều là một bộ phận không tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Tương lai của cư dân Nam Bộ, không phân biệt thuộc thành phần dân tộc nào, luôn
gắn liền với vận mệnh của Tổ quốc Việt Nam, mảnh đất thiêng liêng mà bao đời
nay các thế hệ kế tiếp nhau đã đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ.
LỜI
KẾT
Toàn bộ nội
dung được trình bày ở trên chứng minh rằng, trải qua quá trình lâu dài của lịch
sử, vùng đất Nam Bộ ngày nay từ lâu đã trở thành một bộ phận lãnh thổ không thể
tách rời của Việt Nam. Dù cho trước thế kỷ thứ XVI, lịch sử vùng đất này có
những diễn biến phức tạp thì chân lý đó cũng không thay đổi. Vùng Nam Bộ vốn là
một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều tầng lớp dân cư kế tiếp nhau đến khai
phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước
Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thế kỷ V-VI, Phù Nam đã mở
rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở
phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù
Nam tan rã, nước Chân Lạp, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam
đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông. Từ đó đến thế kỷ XVI vùng đất
Nam Bộ phụ thuộc vào nước Chân Lạp.
Trong suốt thời
gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không được cai quản chặt chẽ và ít được mở
mang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của
các chúa Nguyễn, người Việt đã nhanh chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân
tại chỗ và những cư dân mới đến cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một
vùng đất trù phú. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng
định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý
được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt hơn
ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với
ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo
vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì
thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ
quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.
Khi Pháp thiết
lập chế độ thuộc địa đối với Nam Kỳ và chế độ bảo hộ đối với Căm-pu-chi-a thì
việc hoạch định ranh giới giữa xứ Nam Kỳ thuộc Pháp và vùng lãnh thổ bảo hộ
Căm-pu-chi-a đã được người Pháp thay mặt Việt Nam cùng với Căm-pu-chi-a tiến
hành khảo sát, đo đạc và quyết định trên cơ sở nghiên cứu lịch sử và thực thi
chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam và Vương quốc Căm-pu-chi-a.
Trong suốt thời kỳ đô hộ của mình, người Pháp luôn căn cứ vào các chứng cứ lịch
sử và cơ sở pháp lý để khẳng định vùng đất Nam Bộ là lãnh thổ của Việt Nam.
Pháp đã ký Hiệp ước với triều đình nhà Nguyễn để chiếm đóng các tỉnh của Nam
Kỳ, nên sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã buộc phải
trả lại vùng đất Nam Bộ cho Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với thực tế lịch sử
và có cơ sở pháp lý. Các bản đồ do Sở Địa dư Đông Dương biên soạn và xuất bản
trong khoảng các năm từ 1933 đến 1953 đều thể hiện rõ vùng đất Nam Bộ là một bộ
phận của lãnh thổ Việt Nam. Những bản đồ này đã được Căm-pu-chi-a nhiều lần
tuyên bố thừa nhận dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ khi vùng đất
Nam Bộ trở thành một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, các chính quyền Việt Nam đã
nối tiếp nhau thực thi hữu hiệu chủ quyền của mình đối với vùng đất này. Trải
qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, nhưng vùng đất Nam Bộ vẫn trường
tồn và phát triển được như ngày nay chính là nhờ sự hy sinh to lớn của bao thế
hệ của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất
trong suốt các chặng đường dựng nước và giữ nước đó đã làm rạng rỡ non sông đất
nước, giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam,
được nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ và khâm phục. Sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ ấy đã được các nước trên thế giới thừa nhận và tôn
trọng. Sự thực lịch sử này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản có giá trị pháp
lý quốc tế, đặc biệt là Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam và Hiệp định Pa-ri năm 1973 về kết thúc chiến tranh và khôi phục hoà
bình ở Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Từ bao thế kỷ
nay vùng đất Nam Bộ đã là mảnh đất thiêng liêng không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam.
PHỤ
LỤC
PHỤ
LỤC A
MỘT
SỐ SỰ KIỆN CHÍNH LIÊN QUAN
TỚI
LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ
-
Từ thế kỷ I đến thế kỷ VI, Vương quốc Phù
Nam thành lập và phát triển thành một đế chế trong khu vực.
-
Từ thế kỷ VII, nhà nước Phù Nam bắt đầu suy yếu và bị
Chân Lạp, vốn là một thuộc quốc của Phù Nam, nổi lên thôn tính.
-
Đầu thế kỷ VIII, Chân Lạp chia thành Lục Chân Lạp ở phía Bắc và
Thuỷ Chân Lạp ở phía Nam, Thuỷ Chân Lạp tương ứng với vùng đất Nam Bộ ngày nay.
-
Từ năm 767, Thuỷ Chân Lạp bị quân đội Srivijaya
chiếm đóng.
-
Năm 802, quân Srivijaya rút khỏi Thuỷ Chân Lạp.
-
Từ thế kỷ IX đến XVI, vùng đất Nam Bộ ngày nay, cư dân thưa và
đất đai chưa được khai phá được nhiều.
-
Từ đầu thế kỷ XVII, cư dân người Việt từ Thuận - Quảng đến
vùng đất Mô Xoài, Đồng Nai khai hoang, lập ấp.
-
Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho
vua Chân Lạp Chey Chetta II.
-
Năm 1623, Chúa Nguyễn cho lập sở thu thuế ở Sài
Gòn và Bến Nghé, cử quan quân đến đóng đồn trấn giữ.
-
Năm 1658, quân Chân Lạp xâm phạm biên giới Thuận -
Quảng, Chúa Nguyễn sai quân đi đánh, bắt được Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân, sau
lại tha, bắt phải triều cống.
-
Năm 1673, Nặc Ông Đài cầu cứu quân Xiêm chống lại
vua Chân Lạp Nặc Nộn, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Dương Lâm đem quân đánh
bại quân Xiêm cứu Nặc Nộn.
-
Năm 1679, cựu thần nhà Minh là Dương Ngạn Địch và
Trần Thượng Xuyên tới xin cư trú. Chúa Nguyễn cho họ vào khai phá vùng Lôi Lạp
(Gia Định), Bàn Lâm (Biên Hoà).
-
Năm 1680, Mạc Cửu chiêu tập dân ở Phú Quốc, Lũng
Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập thành 7 xã thôn.
-
Năm 1690, Vua Chân Lạp Nặc Thu sai sứ đến nộp cống
Chúa Nguyễn.
-
Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt phủ Gia Định.
-
Năm 1699, Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, Chúa
Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh.
-
Năm 1702, Công ty Đông Ấn của Anh đem lính chiếm
đảo Côn Lôn. Nhân dân trên đảo dưới sự lãnh đạo của trấn thủ Trấn Biên (Đồng
Nai) Trương Phúc Phan tiêu diệt quân Anh.
-
Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên xin thần phục
Chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên.
-
Năm 1714, Nặc Yêm xin quân Nguyễn sang đánh Nặc
Thâm.
-
Năm 1732, Chúa Nguyễn lập châu Định Viễn và dinh
Long Hồ (Vĩnh Long).
-
Năm 1744, thay đổi tổ chức hành chính ở Đàng
Trong. Chia lại Đàng Trong thành 12 dinh và một trấn (Hà Tiên).
-
Năm 1755, vua Chân Lạp Nặc Nguyên, thông qua Mạc
Thiên Tứ, dâng biểu xin thần phục Chúa Nguyễn.
-
Năm 1757, Vua Chân Lạp Nặc Nguyên mất, Chúa Nguyễn
đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Nặc Ông Tôn cắt đất 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Chân
Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh cho Chúa Nguyễn để tạ ơn.
-
Năm 1771, quân Xiêm vây đánh Hà Tiên. Tổng binh
Mạc Thiên Sứ chống trả quyết liệt.
-
Năm 1783, quân Tây Sơn làm chủ thành Gia Định,
kiểm soát phần lớn đất Đàng Trong.
-
Ngày 19-1-1785, Nguyễn Huệ đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở
Rạch Gầm-Xoài Mút.
-
Năm 1790, Nguyễn Ánh cho xây thành Gia Định.
-
Ngày 15-6-1801, Nguyễn Ánh chiếm được kinh thành Phú
Xuân.
-
Tháng 6-1802, Nguyễn Ánh đặt niên hiệu là Gia Long.
-
Năm 1804, Vua Gia Long đặt quốc hiệu là Việt Nam.
-
Năm 1808, đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành;
dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An; dinh Trấn Biên làm trấn Biên Hoà; dinh Trấn
Vĩnh làm trấn Vĩnh Thanh; dinh Trấn Định làm trấn Định Tường.
-
Năm 1812, Chân Lạp có loạn, vua là Nặc Chân chạy
sang xin viện binh. Vua Gia Long cho cư trú ở Gia Định và năm sau đưa về nước.
-
Năm 1817, đào kênh Thoại Hà từ Long Xuyên đến Rạch
Giá.
-
Năm 1819, khởi công đào kênh Vĩnh Tế. Công trình
hoàn thành vào năm 1824. Cho sở Phú Quốc (trước thuộc đạo Long Xuyên) thuộc về
trấn Hà Tiên.
-
Năm 1821, Vua Chân Lạp là Nặc Chân dâng biểu xin
triều đình Nguyễn bảo hộ.
-
Năm 1824, Vua Chân Lạp là Nặc Chân xin hiến 2 phủ
Chân Sâm, Mật Luật và xin thần phục lâu dài.
-
Năm 1834, quân Xiêm tấn công Chân Lạp. Vua Chân
Lạp chạy sang vùng An Giang. Quân Xiêm xâm phạm tỉnh Hà Tiên. Triều Nguyễn cử
quân đến đánh đuổi và hộ tống vua Chân Lạp về nước.
-
Năm 1836, nhà Nguyễn tiến hành lập địa bạ ở các
tỉnh Nam Kỳ.
-
Năm 1838, Minh Mệnh đổi quốc hiệu là Đại Nam.
-
Năm 1857, Na-pô-lê-ông III thông qua quyết định
xâm lược Việt Nam.
-
Năm 1858, tàu chiến Pháp nổ súng tấn công cảng Đà
Nẵng (lần thứ nhất).
-
Ngày 17-2-1859, thực dân Pháp tấn công Thành Sài Gòn.
-
Ngày 18-2-1859, quân Pháp chiếm đóng Sài Gòn.
-
Ngày 25-2-1861, quân Pháp chiếm Đại đồn Chí Hoà.
-
Ngày 12-4-1861, tỉnh thành Định Tường (Mỹ Tho) thất thủ.
-
Tháng 9-1861, Trương Định khởi nghĩa chống Pháp ở Gia
Định.
-
Tháng 10-1861, Phan Văn Đạt, Trịnh Quang Nghị và Lê Cao
Dõng ở Gia Định nổi dậy chống Pháp.
-
Tháng 11-1861, chiến thắng Cái Bè, Cai Lậy của quân dân
Định Tường.
-
Ngày 9-12-1861, thực dân Pháp đánh chiếm Côn Đảo.
-
Ngày 10-12-1861, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy
pháo hạm Ét-pê-răng (Espérance) của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông.
-
Ngày 18-12-1861, quân Pháp chiếm Biên Hoà.
-
Ngày 7-1-1862, quân Pháp chiếm tỉnh Bà Rịa.
-
Ngày 1-2-1862, quân Pháp chiếm tỉnh thành Vĩnh Long.
-
Ngày 5-6-1862, triều đình Huế ký Hiệp ước cắt ba tỉnh
Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và đảo Côn Lôn cho Pháp.
-
Tháng 8-1862, triều đình Huế cử phái viên sang Pháp để
thương lượng đòi lại ba tỉnh miền Đông.
-
Tháng 6-1863, triều đình Huế cử phái đoàn sang Pháp
thương lượng chuộc lại ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường.
-
Ngày 22-6-1867, Pháp đánh chiếm Châu Đốc, tỉnh thành An
Giang.
-
Ngày 24-6-1867, Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà Tiên.
-
Ngày 25-6-1867, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp
tại Nam Kỳ tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh thổ của Pháp.
-
Ngày 26-8-1867, chiến thắng Long Điền (tỉnh Trà Vinh)
của nghĩa quân Lê Đình Đường.
-
Ngày 9-7-1870, Quyền Thống đốc Nam Kỳ ra quyết định về
việc hoạch định biên giới giữa Căm-pu-chi-a và Nam Kỳ.
-
Ngày 23-1-1872, ký biên bản hoạch định đoạn biên giới
giữa Hà Tiên với Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 15-7-1873, Thoả thuận giữa Quốc vương Căm-pu-chi-a
và Thống đốc Nam Kỳ xác định dứt khoát đường biên giới giữa Nam Kỳ và
Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 15-3-1874, triều đình Huế và Pháp ký Hiệp ước thừa
nhận chủ quyền của Pháp đối với lục tỉnh Nam Kỳ của Việt Nam.
-
Ngày 5-1-1876, Pháp ký Nghị định phân chia Nam Kỳ thành 4 khu
vực hành chính lớn là: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xắc. Mỗi khu vực hành
chính lớn lại được chia nhỏ thành nhiều tiểu khu hành chính.
-
Ngày 5-4-1876, Biên bản hoạch định biên giới giữa
Căm-pu-chi-a và quận Hà Tiên được ký kết.
-
Ngày 8-2-1880, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập
Hội đồng thuộc địa (còn gọi là Hội đồng quản hạt) Nam Kỳ.
-
Tháng 6-1883, cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Tho thất bại.
-
Ngày 17-10-1887, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập
Liên bang Đông Dương.
-
Ngày 28-11-1888, Biên bản điều chỉnh đường biên giới giữa
Căm-pu-chi-a và quận Hà Tiên được ký kết.
-
Ngày 20-12-1899, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi
Tiểu khu (đơn vị hành chính ở Nam Kỳ lúc bấy giờ) thành Tỉnh và phân chia Nam
Kỳ thành ba miền Miền (Đông, Trung và Tây).
-
Ngày 5-6-1911, từ cảng Sài Gòn Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm đường cứu nước.
-
Ngày 28-3-1913, cuộc bạo động chống Pháp của Phan Phát
Sanh bùng nổ.
-
Ngày 12-3-1914, Vua Căm-pu-chi-a ra chỉ dụ về việc
hoạch định biên giới giữa Prey Veng (Căm-pu-chi-a) và Tây Ninh (Nam Kỳ).
-
Ngày 31-7-1914, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về
những thay đổi đường biên giới giữa các tỉnh Hà Tiên và Kampot, Tây Ninh và
Prey Veng, Thủ Dầu Một và Kompong Cham.
-
Ngày 31-1-1926, mít tinh chống trục xuất người Bắc Kỳ và
Trung Kỳ ra khỏi Nam Kỳ.
-
Ngày 30-10-1927, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về
“cải lương hương chính” ở Nam Kỳ.
-
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập.
-
Tháng 2-1930, thành lập Ban lâm thời Chấp ủy Đảng Cộng
sản Việt Nam tại Nam Kỳ.
-
Tháng 4-1930, thành lập Tổng Công hội Nam Kỳ.
-
Ngày 4-6-1930, biểu tình chống Pháp lớn nhất của Nam Bộ
nổ ra tại quận lỵ Đức Hoà (tỉnh Chợ Lớn).
-
Ngày 14-12-1930, khánh thành Trung tâm Khmer tại Sài Gòn
chuyên nghiên cứu về lịch sử, khảo cổ, nghệ thuật…và các vấn đề khác có liên
quan đến văn hoá Chăm và dân tộc Khmer.
-
Ngày 6-12-1935, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về
việc xác định đường biên giới giữa Châu Đốc và Kandal.
-
Ngày 11-12-1936, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về
việc phân định đường biên giới giữa Châu Đốc và Prey Veng.
-
Ngày 23-11-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương bùng nổ ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ.
-
Ngày 26-7-1942, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về
việc điều chỉnh đường biên giới giữa Châu Đốc và Kandal.
-
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính lật Pháp trên toàn cõi
Đông Dương.
-
Ngày 11-3-1945, Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, huỷ bỏ Hoà
ước năm 1884 với Pháp.
-
Ngày 18-8-1945, Mỹ Tho khởi nghĩa giành chính quyền.
-
Ngày 21-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Tân An.
-
Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Bạc Liêu.
-
Ngày 24-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Gò Công.
-
Ngày 25-8-1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn.
Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ ra mắt. Cách mạng thành công ở Chợ Lớn, Gia
Định, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc.
-
Ngày 26-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Châu Đốc, Biên
Hoà.
-
Ngày 27-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Rạch Giá.
-
Ngày 28-8-1945, khởi nghĩa thành công ở Hà Tiên.
-
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
-
Ngày 12-9-1945, theo Hiệp ước Pốt-đam (Posdam), quân đội
Anh đổ bộ vào Sài Gòn, dẫn theo quân Pháp.
-
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng xâm lược tại Sài
Gòn, Nam Bộ bắt đầu kháng chiến chống Pháp (lần thứ hai).
-
Ngày 26-9-1945, Đoàn quân Nam tiến đầu tiên xuất phát từ
ga Hà Nội vào Nam chiến đấu chống Pháp.
-
Ngày 6-1-1946, Tổng tuyên cử đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Trong tổng số 333 đại biểu Quốc hội được bầu có 78 đại biểu
của Nam Bộ và 1 đại biểu người Khmer.
-
Ngày 28-1-1946, quân đội Anh chuyển giao quyền kiểm soát
quân sự ở miền Nam cho quân đội Pháp.
-
Tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng quân và dân
Nam Bộ danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”.
-
Ngày 6-3-1946, ký Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp.
-
Ngày 1-6-1946, Pháp dựng lên “Chính phủ Cộng hoà Nam Kỳ
tự trị” do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu, đi ngược lại Hiệp định sơ bộ 6-3. Nhưng
Chính phủ này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
-
Ngày 14-9-1946, ký Tạm ước Việt - Pháp tại Pa-ri.
-
Ngày 17-11-1946, chiến sự lan rộng trên khắp chiến trường
miền Nam.
-
Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn quốc kháng
chiến.
-
Ngày 5-8-1948, ký Thông cáo chung Hạ Long giữa Cao ủy
Pháp tại Đông Dương Bô-la-e (Bollaert) và Thủ tướng Chính phủ Trung ương lâm
thời Việt Nam Nguyễn Văn Xuân, có sự chứng kiến của Bảo Đại, công nhận nền độc
lập và quyền tự do thống nhất của Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp.
-
Ngày 8-3-1949, Hiệp ước Ê-ly-dê (Élysée) giữa Tổng
thống Pháp Vanh-xăng Ô-ri-ôn (Vincent Auriol) với Bảo Đại được ký tại điện
Ê-ly-dê, Pa-ri.
-
Ngày 24-4-1949, Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ biểu quyết đồng
ý tái nhập Nam Kỳ vào Việt Nam.
-
Ngày 4-6-1949, Tổng thống Pháp ký Luật 49-733 trả lại
Nam Kỳ cho Việt Nam.
-
Ngày 4-2-1950, Mỹ công nhận chính phủ Bảo Đại và đặt sứ
quán tại Sài Gòn.
-
Ngày 23-12-1950, Mỹ, Pháp và chính quyền ba nước Đông
Dương ký Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương.
-
Ngày 20-1-1951, Trung ương cục miền Nam thành lập.
-
Tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Việt
Nam, Lào, Căm-pu-chi-a mỗi nước tự xây dựng đảng, chính quyền, quân đội riêng
độc lập với nhau.
-
Ngày 11-3-1951, thành lập khối Liên minh nhân dân
Việt-Miên-Lào.
-
Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương kết
thúc. Các bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Căm-pu-chi-a, Lào được ký kết.
-
Ngày 28-4-1956, quân Pháp rút khỏi miền Nam.
-
Ngày 8 đến ngày 9-6-1956, Bộ chính trị
Trung ương Đảng họp và ra Nghị quyết về “tình hình và nhệim vụ cách mạng miền
Nam”.
-
Ngày 17-1-1960, cuộc đồng khởi của đồng bào tỉnh Bến Tre
mở đầu phong trào Đồng khởi trên toàn miền Nam.
-
Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam thành lập.
-
Tháng 10 và 12-1964, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam và Vương quốc Căm-pu-chi-a đàm phán tại Bắc Kinh về vấn đề biên giới.
-
Ngày 8-3-1965, lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ lên bãi biển
Đà Nẵng mở đầu chiến tranh cục bộ của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
-
Ngày 22-6-1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam chính thức thiết lập Cơ quan đại diện thường trực tại Căm-pu-chi-a.
-
Từ 30-1 đến ngày 31-3-1968, Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân.
-
Ngày 8-6-1969, thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
-
Ngày 29-4-1970, một số sư đoàn chủ lực miền Nam phối hợp
với lực lượng vũ trang Căm-pu-chi-a đánh bại cuộc tiến công xâm lược qui mô lớn
của quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn sang Đông-Bắc Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết tại Pa-ri.
-
Ngày 30-4-1975, thành phố Sài Gòn và toàn miền Nam được
giải phóng.
-
Ngày 1-5-1975, Chính quyền Căm-pu-chi-a Dân chủ (Khmer
Đỏ) cho lực lượng vũ trang xâm lược lãnh thổ Việt Nam ở nhiều vùng biên giới từ
Hà Tiên đến Tây Ninh.
-
Ngày 4-5-1975, quân Khmer Đỏ tấn công đảo Phú Quốc của
Việt Nam.
-
Ngày 10-5-1975, quân Khmer Đỏ tấn công chiếm đảo Thổ Chu
của Việt Nam.
-
Ngày 25-5-1975, lực lượng vũ trang địa phương đánh đuổi
quân Khmer Đỏ khỏi đảo Thổ Chu.
-
Ngày 25-4-1976, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của
nước Việt Nam thống nhất.
-
Từ tháng 4-1977, Chính quyền Khmer Đỏ dùng nhiều sư đoàn,
nhiều lần đồng loạt tấn công Việt Nam tại các vùng biên giới từ Hà Tiên tới Tây
Ninh.
-
Ngày 31-12-1977, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra tuyên bố về vấn đề biên giới với Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 7-4-1978, Vụ Báo chí, Bộ Ngoại giao Việt Nam họp
báo công bố hai tài liệu: “Sự thật về vấn đề Liên bang Đông Dương” và “Sự thật
về vấn đề biên giới Việt Nam - Căm-pu-chi-a”.
-
Ngày 7-1-1979, quân đội Việt Nam phối hợp với cuộc tiến
công nổi dậy của quân dân Căm-pu-chi-a đánh đổ chế độ Khmer Đỏ diệt chủng ở
Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 18-2-1979, ký Hiệp ước Hoà bình, hữu nghị và hợp
tác giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân
Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 19-11-1981, hội nghị bàn về công tác đối với đồng
bào dân tộc Khmer do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập tại Cần Thơ.
-
Ngày 7-7-1982, ký Hiệp định về vùng nước lịch sử chung
của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Căm-pu-chi-a.
-
Ngày 20-7-1983, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hoà nhân dân Căm-pu-chi-a ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên
giới giữa hai nước và Hiệp định về Quy chế biên giới giữa hai nước.
-
Ngày 27-12-1985, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hoà nhân dân Căm-pu-chi-a ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia.
-
Ngày 10-10-2005, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính
phủ Hoàng gia Căm-pu-chi-a ký kết hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên
giới quốc gia năm 1985.
-
Ngày 27-9-2006, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và
Căm-pu-chi-a chứng kiến lễ khánh thành cột mốc biên giới đầu tiên tại cửa khẩu
Mộc Bài (Tây Ninh, Việt Nam) - Bà Vẹt (Căm-pu-chi-a).
PHỤ
LỤC B
TOÀN
VĂN VÀ TRÍCH LỤC
MỘT
SỐ VĂN BẢN PHÁP LÝ
Phụ lục BI
HIỆP
ƯỚC HOÀ BÌNH VÀ HỮU NGHỊ KÝ TẠI SÀI
GÒN NGÀY 5/6/1862 GIỮA PHÁP, TÂY
BAN NHA VÀ VƯƠNG QUỐC AN NAM
Hoàng đế nước Pháp
Napoléon III, Nữ hoàng Tây Ban Nha Isabelle II và quốc vương An Nam Tự Đức rất
mong muốn từ nay về sau một sự hoà hợp tốt đẹp nhất được duy trì trong quan hệ
giữa ba quốc gia Pháp, Tây Ban Nha và An Nam; đồng thời cũng mong muốn không
bao giờ tình hữu nghị, hoà bình đó bị gián đoạn. Để phục vụ những lý tưởng ấy:
Chúng tôi,
Louis-Adolphe Bonard, Phó Đô đốc Hải quân, Tổng Tư lệnh liên quân viễn chinh
Pháp - Tây Ban Nha tại Nam Kỳ, Công sứ đặc mệnh toàn quyền của hoàng đế Pháp,
huân chương Bắc đẩu bội tinh và huân chương Saint-Stanislas của Nga, huân
chương Saint-Grégoire-le-Grand của Roma, hiệp sĩ hoàng gia Tây Ban Nha của vua
Charles III;
Don-Carlos
Palanca-Gutierrez, Đại tá Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Tây Ban Nha tại Nam
Kỳ, huân chương Hoàng gia Mỹ Isabelle la Catholique, huân chương Bắc đẩu bội
tinh hoàng gia, hiệp sĩ hoàng gia và hiệp sĩ quân đội Saint-Ferdinand et
Saint-Herménégilde, Công sứ đặc mệnh toàn quyền của Hoàng hậu Tây Ban Nha
Dona-Isabelle II;
Và chúng tôi,
Phane-Tanh-Gian (Phan Thanh Giản), phó ngự sử Vương quốc An Nam, Thượng thư Bộ
Lễ, trưởng phái bộ đặc mệnh toàn quyền của Quốc vương Tự Đức, tháp tùng có
Lam-Gien-Tiep (Lâm Duy Hiệp) Thượng thư Bộ Binh, Phái viên đặc mệnh toàn quyền
của Quốc vương Tự Đức;
Chúng tôi được
giao toàn quyền ký kết Hiệp ước hoà bình và được quyền hành động theo lương tâm
và ý chí. Chúng tôi gặp nhau và sau khi đã trao đổi ủy nhiệm thư hợp lệ, chúng
tôi đi đến ký kết một Hiệp ước hoà bình, hữu nghị trong đó chúng tôi nhất trí
với từng điều khoản như sau:
Điều
1: Từ nay về sau, hoà bình sẽ mãi mãi được
thiết lập giữa một bên là Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha và một bên là
Quốc vương An Nam. Tình hữu nghị toàn diện và lâu bền cũng sẽ được thiết lập
giữa thần dân ba nước dù họ ở bất cứ nơi đâu.
Điều
2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha
được phép hành đạo Ki-tô ở vương quốc An Nam và bất kỳ thần dân An Nam nào mong
muốn theo đạo Ki-tô đều có thể tự do theo đạo này và không phải bị trói buộc,
nhưng những người không muốn theo đạo sẽ không bị bắt buộc phải theo.
Điều
3: Toàn bộ ba tỉnh Biên Hoà,Gia Định và Định
Tường (Mỹ Tho), cũng như đảo Côn Đảo (Pulo-Condor), theo Hiệp ước này đều được
chuyển nhượng hoàn toàn cho Hoàng đế nước Pháp. Ngoài ra, thương nhân Pháp có
thể tự do buôn bán và đi lại trên bất cứ tàu thuyền nào trên các sông lớn của
Cao Miên và trên tất cả các nhánh của con sông này. Các chiến hạm Pháp cũng
được phép đi lại tự do trên con sông hay các nhánh sông này.
Điều
4: Khi hoà bình đã được thiết lập, nếu như có
một quốc gia ngoại bang nào đó muốn dùng vũ lực hoặc bằng cách ký một Hiệp ước
để buộc An Nam phải nhượng một phần lãnh thổ, thì Quốc vương An Nam có trách
nhiệm cho sứ giả đến thông báo cho Hoàng đế Pháp, và Hoàng đế Pháp được toàn
quyền quyết định việc giúp đỡ Quốc Vương An Nam hay không; nhưng nếu Hiệp ước
nói trên đề cập tới vấn đề chuyển nhượng lãnh thổ với nước ngoài, thì vấn đề đó
sẽ chỉ có thể được phê chuẩn với sự đồng ý của Hoàng đế Pháp.
Điều
5: Thần dân của đế chế Pháp và vương quốc
Tây Ban Nha có toàn quyền buôn bán tự do tại các cảng Đà Nẵng (Tourane), Ba Lạt
và Quảng An. Thần dân An Nam cũng được tự do buôn bán tại các cảng của Pháp và
Tây Ban Nha với điều kiện tuân thủ các luật định.
An Nam không
được dành sự bảo hộ cho thần dân của một nước khác đến buôn bán tại An Nam lớn
hơn so với sự bảo hộ mà họ dành cho thần dân Pháp và Tây Ban Nha, và nếu như
nước ngoài này được An Nam dành cho một ưu đãi thì ưu đãi đó không thể lớn hơn
ưu đãi mà An Nam dành cho Pháp và Tây Ban Nha.
Điều
6: Khi hoà bình được thiết lập, nếu như
phải giải quyết công việc gì quan trọng, Hoàng đế Pháp, Nữ hoàng Tây Ban Nha
cùng Quốc vương An Nam có thể gửi đại diện đến giải quyết các việc đó tại một
trong ba kinh đô của ba nước. Nếu không có việc quan trọng mà chỉ là một trong
ba vị hoàng đế muốn gửi lời chúc tụng đến cho người khác thì có thể gửi sứ giả
đại diện. Tàu của đại sứ Pháp hay Tây Ban Nha sẽ cập cảng Đà Nẵng (Tourane), từ
đó sẽ theo đường bộ ra Huế để gặp Quốc vương An Nam.
Điều
7: Khi hoà bình được thiết lập, hận thù
phải được dẹp bỏ hoàn toàn; vì vậy, Hoàng đế Pháp ra lệnh tổng ân xá đối với
các thần dân, kể cả quân nhân hay thường dân của vương quốc An Nam bị bắt trong
chiến tranh, tài sản của họ bị tịch thu cũng được trả lại. Quốc vương An Nam
cũng ra lệnh tổng ân xá đối với thần dân của mình đã đi theo người Pháp và lệnh
ân xá đến cả những người trong gia đình họ.
Điều
8: Trong vòng 10 năm, quốc vương An Nam sẽ
phải trả một khoản tiền bồi thường chiến tranh là bốn triệu đô la. Như vậy, mỗi
năm Quốc vương An Nam sẽ phải chuyển cho đại diện của Hoàng đế Pháp tại Sài Gòn
400.000 đô la. Khoản tiền này là để bồi thường những phí tổn chiến tranh mà
Pháp và Tây Ban Nha đã phải chịu. Một trăm nghìn quan tiền đã trả sẽ được khấu
trừ vào khoản tiền chiến phí này. Vương quốc An Nam không có đô la, do vậy sẽ
tính 1 đô la tương đương với sáu mươi lượng và mười hai phần trăm.
Điều
9: Nếu một số tên côn đồ, kẻ cướp hay kẻ
gây rối người An Nam phạm tội hay gây rối trên đất Pháp, hay nếu một vài thần
dân châu Âu phạm tội và bỏ trốn sang đất An Nam, thì ngay sau khi được chính
quyền Pháp thông báo, chính quyền An Nam phải nỗ lực truy bắt tội phạm để giao
nộp cho phía Pháp. Phía Pháp cũng làm như vậy đối với những tên côn đồ, kẻ cướp
hay kẻ gây rối người An Nam sau khi phạm tội đã bỏ trốn sang đất Pháp.
Điều
10: Cư dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà
Tiên có quyền buôn bán tự do tại ba tỉnh thuộc Pháp, và phải tuân thủ luật lệ
hiện hành; nhưng việc vận chuyển binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thảo
giữa ba tỉnh này nhất thiết chỉ được dùng đường biển. Tuy nhiên, Hoàng đế Pháp
cho phép các đoàn vận chuyển này được vào đất Cao Miên qua cửa sông có tên là
Cửa Tiểu ở Mitto (Mỹ Tho), với điều kiện nhà chức trách An Nam phải báo trước
cho đại diện của Hoàng đế Pháp để được cấp giấy thông hành. Nếu như thủ tục này
bị bỏ qua và một chuyến vận chuyển như vậy đi vào không có giấy phép, chuyến
hàng đó sẽ bị tịch thu và tiêu hủy.
Điều
11: Thành Vĩnh Long sẽ được canh giữ cho đến khi có lệnh mới của
quân đội Pháp, tuy nhiên không cản trở bằng bất cứ cách gì hoạt động của quan
lại An Nam. Thành này sẽ được trao trả lại cho Quốc vương An Nam ngay khi nào
chấm dứt được tình trạng nổi loạn hiện đang xảy ra theo lệnh Quốc vương An Nam
ở hai tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi các thủ lĩnh phiến loạn đó đã ra đi
và đất nước được bình yên và quy phục.
Điều
12: Hiệp ước này được ký kết giữa ba nước, và các đại diện toàn
quyền của ba nước nói trên đã ký và đóng ấn. Các đại diện này có nghĩa vụ thông
báo cho triều đình của mình về việc ký kết này, và trong vòng một năm tính từ
hôm nay, ngày ký kết Hiệp ước, ba vị Quân vương sẽ xem xét và phê chuẩn Hiệp
ước này, buổi trao đổi văn bản phê chuẩn Hiệp ước sẽ diễn ra tại kinh đô vương
quốc An Nam.
Với sự tin
tưởng vào kết quả này, ba vị quan đặc mệnh toàn quyền kể trên đã ký kết và đóng
ấn vào Hiệp định này.
Sài
Gòn, năm 1862, ngày mồng 5 tháng 6
Năm
Tự Đức thứ 15, ngày mồng 9 tháng 5
Bonard
Carlos Palanca-Gutierrez
(Ấn
và chữ ký của đại diện toàn quyền An Nam)
Phụ lục BII
HIỆP
ƯỚC BÍ MẬT XIÊM – CĂM-PU-CHI-A
KÝ
NGÀY 1/12/1863
(Trích)
Với mong muốn
thịnh vượng và hạnh phúc gia tăng và bao trùm lên đất nước Căm-phu-chi-a.
Giữa một bên là
ông Phya Rajawaranukul, người được trao toàn quyền của Đức vua Xiêm Somdetch
Phra Paramendr Maha Mongkut và của các Bộ trưởng trong Nội các Hoàng gia để
giải quyết các vấn đề của Căm-phu-chi-a, và bên kia là ông Phra Norodom Phrom
Briraksa Maha Uparat, Khâm sai của Quốc vương Căm-pu-chi-a, ông Phra Harirat
Danai Krai Keofa, cùng với các nhà quý tộc Căm-pu-chi-a sau đây:
Phya Sri Thamarat
Phya Kalahom
Phya Wang
Waravenchai
Phya Phi Phit
Sorakrai
Phya Chakri
Thebodi
Somdetch
Chaitha Montri
Somdetch Chow
Phya Waratom Pahu
Phya Attibodi
Senath
đã ký một hiệp
ước nhằm bảo đảm hoà bình, phồn vinh cho các quan cai trị và cư dân Căm-phu-chi-a.
Mong muốn các
nhà chức trách các tỉnh, các thương nhân đến Căm-pu-chi-a nắm được Hiệp ước này
và chấp hành đúng vì các vua nước Xiêm đã giúp Căm-pu-chi-a rất nhiều trong
việc giúp đỡ, bảo vệ Căm-pu-chi-a từ khi bắt đầu thời kỳ hiện tại.
Căm-pu-chi-a
nằm giữa các lãnh thổ Xiêm, Nam Kỳ và các vùng đất thuộc Pháp, do đó đây là lúc
thích hợp để ký kết một Hiệp ước giải quyết những vấn đề cũ và mới dùng làm kim
chỉ nam cho các nhà cai trị và các nhà quý tộc của Căm-pu-chi-a, hiện nay và
trong tương lai, cũng như các nhà cai trị các bang khác nhau của Xiêm. Tất cả
mọi người phải làm theo đúng các điều khoản của Hiệp ước này.
Phục lục BIII
QUYẾT
ĐỊNH VỀ VIỆC PHÂN ĐỊNH
ĐƯỜNG
BIÊN GIỚI CỦA CĂM-PU-CHI-A
NGÀY
9/7/1870
Quyền thống
đốc, Phó Đô đốc Hài quân, Tổng chỉ huy
QUYẾT
ĐỊNH
Sau khi đã xem
xét dự thảo phân định đường biên giới được trình bày trên danh nghĩa của nhà
Vua và dự thảo do Ủy ban của Pháp đề xuất, Ủy ban đã quyết định:
Đường biên giới
vẫn giữ nguyên như đã xác định từ cột mốc số 1 (ở cửa sông Prach-Prien) cho đến
cột mốc số 16 (ở Ta-Sang trên sông Cái Cậy).
Vùng đất nằm
giữa Cái Bạch và Cái Cậy thuộc lãnh thổ của Pháp (với thu nhập hàng năm vào
khoảng 1.000 fr) sẽ được chuyển nhượng cho Căm-pu-chi-a để đổi lấy 486 ngôi nhà
tạo thành các làng ở khu vực Sóc Trăng và Bang-Chrum.
Cột mốc số 17
và 18 và các số tiếp theo cho đến Hung-nguyên sẽ được huỷ bỏ; Căm-pu-chi-a giữ
lại toàn bộ khu vực lãnh thổ hiện có người Căm-pu-chi-a của các tỉnh Preyveng
Boni Fuol, Sóc-Thiet sinh sống.
Đường ranh giới
sẽ được xác định sau và phía Pháp sẽ tiếp tục sở hữu dải đất chạy dọc theo sông
Vàm Cỏ, do người An Nam cư trú hoặc khai thác.
Sài
Gòn, ngày 09 tháng 7 năm 1870
VIAL-RHEINART
Chuẩn y:
Quốc
vương Căm-pu-chi-a NORODOM
Thống đốc, Phó
Đô đốc Hải quân:
DE
CORNULIER-LUCINIÈRE
Phụ lục BIV
THOẢ
ƯỚC VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH
DỨT
ĐIỂM ĐƯỜNG BIÊN GIỚI
GIỮA
VƯƠNG QUỐC CĂM-PU-CHI-A
VÀ
XỨ NAM KỲ THUỘC PHÁP, KÝ NGÀY 15/7/1873
Ngài Préa Bat
Som Dâch Prea Norodom Baroui Réam Té Véa Tanâ Préa Chau Crung Căm-pu-chi-a Thip
Phdey, vua Căm-pu-chi-a,
Và ông Phó Đô
đốc Hải quân Dupré (Marie-Jules), Thống đốc và Tổng tư lệnh xứ Nam Kỳ, thay mặt
Chính phủ Pháp;
Mong
muốn xác định dứt điểm, qua thoả thuận, đường biên giới giữa Vương quốc
Căm-pu-chi-a và xứ Nam Kỳ thuộc Pháp, sau khi đã cho tiến hành nghiên cứu địa
hình khu vực để có cơ sở xác định đường phân giới theo các dòng chảy hoặc các
chỗ lồi lõm đủ bền vững và rõ ràng nhằm tránh mọi tranh cãi về sau, đã thông
qua và ký vào thoả ước này, gồm các điều khoản sau:
Biên giới giữa
xứ Nam Kỳ thuộc Pháp và vương quốc Căm-pu-chi-a sẽ được đánh dấu bằng các cột
mốc có đánh số, có ghi chú nêu công dụng của cột. Tổng số cột mốc là 124. Cột
mốc số 1 sẽ được đặt ở điểm cực Đông của đường biên giới và các cột tiếp theo
sẽ tiến dần về hướng Tây, theo trật tự tự nhiên của các con số, cho đến cột số
124, đặt cách kênh Vĩnh Tế và làng Hoa Thanh của xứ An Nam 1200 mét về phía
Bắc.
Đường biên giới
này sẽ đi qua những điểm chính sau:
Điểm bắt đầu là
cột mốc số 1 đặt trên bờ con sông nhỏ Tonlé Tru; hướng chung của đường biên
giới là đi về hướng Tây Nam và đi ngang qua các làng Sroc Tun, Sroc Papan, Sroc
Banchrung, Rung Knoch, Sroc Tranh, Sroc Chung Ngon, Phumandet, Sroc Câe, Sroc
Kompong Menchey (hay Bengo), đi theo bờ Cái Bắc, ngược tả ngạn của sông Cái
Cây, đi qua Phum Kompong Cassang; Sroc Tameng, Sroc Tahong, Sroc Chéo, Phum
Bathu, Sroc May, Sroc Rach Chanh, Sroc Tanu, đi theo bờ Bắc rạch Chris Asey
(tên An Nam là Ta Du); đi theo bờ Bắc Rach Banan, cắt sông Hậu ở phía Nam đảo
Co Ki (tên An Nam là cù lao Cái Sen); đi qua giao điểm của Prèk Croch và Prèk
Slot; rồi theo đường song song với kênh Vĩnh Tế ở phía Bắc, đền làng Giang
Thành và từ đó đi thẳng tới Hà Tiên để kênh Prèk Croch về phía Đông.
Được ký và đóng
dấu tại Phnom Penh, ngày 15 tháng 7 năm 1873, tương ứng với ngày 5 (rôch),
tháng Asat, năm Roca Panhcha Sac, 1235 theo lịch Căm-pu-chi-a.
Đã đóng
dấu
Đã ký
Con
dấu Vương
quốc
Phó Đô đốc Hải quân DUPRÉ
Phục lục BV
HIỆP
ƯỚC VỀ LIÊN MINH VÀ HOÀ BÌNH
GIỮA
AN NAM VÀ CỘNG HOÀ PHÁP
KÝ
NGÀY 15/3/1874
Tổng thống nước
Cộng hoà Pháp và Quốc vương An Nam với mong muốn liên kết hai nước bằng mối
quan hệ hữu nghị bền lâu, đã quyết định ký kết một Hiệp ước hoà bình và liên
minh thay cho Hiệp ước cũ ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 và vì vậy, đã bổ nhiệm các
đại diện toàn quyền của mình, cụ thể:
Tổng thống nước
Cộng hoà Pháp bổ nhiệm Phó Đô đốc Dupré, Thống đốc và Tổng Tư lệnh khu vực Hạ
Nam Kỳ…
Quốc vương An
Nam bổ nhiệm ngài Lê Tuân, Thượng thư Bộ hình làm đại sứ thứ nhất, và ngài
Nguyễn Văn Tường, cố vấn thứ nhất của Thượng thư Bộ Lễ làm đại sứ thứ hai.
Sau việc ủy
quyền được thực hiện theo đúng ghi thức và qui định, các đại diện toàn quyền đã
nhất trí thoả thuận các điều khoản sau:
Điều
1: Hoà bình, hữu nghị và quan hệ liên minh
sẽ tồn tại vĩnh viễn giữa hai nước Pháp và Vương quốc An Nam.
Điều
2: Tổng thống nước Cộng hoà Pháp công nhận chủ
quyền cũng như sự độc lập hoàn toàn của Quốc vương An Nam trước mọi cường quốc
bên ngoài, hứa sẽ giúp đỡ và hỗ trợ Quốc vương An Nam và cam kết rằng, nếu Quốc
vương An Nam yêu cầu, sẽ dành những hỗ trợ miễn phí cần thiết để duy trì trật
tự và ổn định trên lãnh thổ An nam, bảo vệ Quốc vương An Nam trước mọi sự tấn
công và ngăn chặn nạn cướp biển đang hoành hành tại một phần của bờ biển Vương
quốc An Nam.
Điều
3: Để đáp lại sự bảo hộ này, Quốc vương An
Nam cam kết điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với chính sách
của Pháp và không thay đổi gì trong quan hệ ngoại giao của mình.
Cam kết chính
trị này không có giá trị đối với các hiệp ước thương mại. Nhưng trong mọi
trường hợp, Quốc vương An Nam không được ký với bất kỳ quốc gia nào một hiệp
ước thương mại không phù hợp với Hiệp ước đã ký giữa Pháp và An Nam mà không
thông báo trước cho chính phủ Pháp biết.
Điều
4: Tổng thống Pháp cam kết sẽ tặng cho Quốc
vương An Nam:
1- Năm tàu chạy
bằng hơi nước 500 mã lực trong tình trạng tốt cùng với các nồi hơi và máy móc,
được trang bị và có vũ khí đầy đủ theo đúng những quy định về vũ trang.
2- 200 khẩu đại
bác đường kính từ 7 đến 16 cm với 200 viên đạn mỗi khẩu.
3- 1000 khẩu
súng trường có hộp đựng đạn và 500.000 viên đạn.
Các tàu và vũ
khí này sẽ được chuyển đến Nam Kỳ và giao cho Quốc vương An Nam trong thời hạn
tối đa là 1 năm kể từ ngày trao đổi văn bản đã phê chuẩn.
Ngoài ra, Tổng
thống Pháp cũng hứa sẽ gửi cho Quốc vương An Nam các kỹ sư hướng dẫn và thuỷ
thủ với số lượng đủ để giúp Quốc vương An Nam xây dựng lại quân đội và lực
lượng hải quân; các kỹ sư và quản đốc phân xưởng có khả năng điều hành các công
việc mà Quốc vương An Nam muốn thực hiện; các chuyên gia về tài chính để tổ
chức hệ thống thuế quan và các giáo viên để thành lập một trường trung học tại
Huế. Ngoài ra, Tổng thống Pháp còn hứa cung cấp cho Quốc vương An Nam các chiến
hạm, vũ khí và đạn dược mà Quốc vương An Nam cần.
Tiền thù lao
tương ứng với các dịch vụ nêu trên được quy định cụ thể trong Hiệp định chung
sẽ được lãnh đạo cấp cao hai bên ký kết sau.
Điều
5: Quốc vương An Nam công nhận chủ quyền đầy đủ
và toàn vẹn của Pháp trên toàn phần lãnh thổ do Pháp chiếm đóng hiện nay, nằm
phía trong các đường biên giới sau:
Phía
Đông, Biển Đông và Vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận).
Phía
Tây, Vịnh Xiêm.
Phía
Nam, Biển Đông.
Phía
Bắc, Vương quốc Cao Miên và Vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận)…
Điều
21: Hiệp ước này thay cho Hiệp ước đã ký năm
1862 và Chính phủ Pháp chịu trách nhiệm đàm phán để Chính phủ Tây Ban Nha đồng
ý với Hiệp ước này. Trong truờng hợp Tây Ban Nha không chấp nhận những sửa đổi
so với Hiệp ước 1862 thì Hiệp ước này chỉ có giá trị giữa Pháp và An Nam. Những
quy định cũ liên quan đến Tây Ban Nha vẫn tiếp tục có hiệu lực. Trong trường
hợp này, nước Pháp đảm nhiệm chi trả khoản tiền bồi thường chiến tranh cho Tây
Ban Nha và sẽ trở thành chủ nợ của An Nam thay vào vị trí Tây Ban Nha để nhận
khoản bồi thường đúng theo quy định tại điều 7 của Hiệp ước này.
Điều
22: Hiệp ước này có giá trị vĩnh viễn. Hiệp
ước sẽ được phê chuẩn và văn bản phê chuẩn sẽ được trao đổi tại Huế trong thời
gian 1 năm và thậm chí ngắn hơn có thể. Hiệp ước sẽ được công bố và có hiệu lực
ngay sau khi trao đổi văn bản phê chuẩn.
Các đại diện
toàn quyền của từng bên đã ký Hiệp ước và đã đóng dấu.
Hiệp ước được
ký tại trụ sở của Chính phủ Nam Kỳ thuộc Pháp ở Sài Gòn, in thành 4 bản, ngày
chủ nhật, 15 tháng 3 năm 1874 tức là ngày 27 tháng 1 năm Tự Đức thứ 27.
Chuẩn
Đô đốc DUPRÉ
LÊ
TUÂN VÀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG
Phụ lục
BVI
LUẬT
49 -773 NGÀY 4/6/1949
CỦA
QUỐC HỘI CỘNG HOÀ PHÁP
“Theo ý kiến
của các nghị sỹ Quốc hội Pháp,
Quốc hội và Hội
đồng của Cộng hoà Pháp quyết định,
Quốc hội của
Cộng hoà Pháp đã thông qua,
Tổng thống của
Cộng hoà Pháp công bố Sắc luật như sau:
Điều
1: Trong khuôn khổ điều 60 của Hiến pháp
Cộng hoà Pháp và theo kiến nghị của Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ tại kỳ họp ngày
23/4/1949, Quy chế về vùng đất Nam Kỳ đã được sửa đổi theo điều luật dưới đây:
Điều
2: Lãnh thổ Nam Kỳ được trao lại Nhà nước
liên hiệp Việt Nam theo Tuyên bố chung ngày 5/6/1948 và Tuyên bố của Chính phủ
Pháp ngày 19/8/1948. Nam Kỳ không còn nằm trong quy chế lãnh thổ hải ngoại của
Pháp.
Điều
3: Trong trường hợp Quy chế của Việt Nam bị
sửa đổi thì Quy chế về vùng đất Nam Kỳ thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội
nói trên như đã quy định tại điều 75 của Hiếp Pháp (chương VIII: Liên hiệp
Pháp).
Luật này được
thực hiện như luật của nhà nước.
Làm tại Toulon
ngày 4/6/1949
Đã ký
VINCENT
AURIOL
Tổng thống Pháp
HENRI
QUEUILLE
Thủ tướng Cộng
hoà Pháp
PAUL
COSTE-FLORET
Bộ trưởng lãnh
thổ Hải ngoại Pháp
Phụ lục BVII
THƯ
NGÀY 8/6/1949
CỦA
CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ PHÁP
GỬI
QUỐC VƯƠNG SIHANOUK
“…Những lý do
về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán
song phương với Căm-pu-chi-a để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ. Quốc
vương hẳn cũng biết rằng Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các hiệp
ước năm 1862 và 1874.
Không một điều
khoản nào trong văn kiện ngoại giao trao đổi giữa các nước chúng ta nói tới vấn
đề chuyển giao các quyền về chính trị và lãnh thổ liên quan đến Nam Kỳ. Hai
công ước ngày 9/7/1870 và 15/7/1873 đã xác định đường biên giới hiện nay, không
kể một vài sửa đổi chi tiết về sau. Chúng không bao gồm một bảo lưu nào về các
vùng đất mà hiện nay đang được đòi.
Chính từ triều
đình Huế mà Pháp đã nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam, các quyền phê duyệt
những hoạt động quân sự tiến hành chống lại các quan lại An Nam chứ không phải
chống lại các nhà chức trách Khmer. Về pháp lý, nước Pháp có cơ sở để thoả
thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi Quy chế chính trị của Nam Kỳ và chính
là với Chính phủ Việt Nam ngày nay. Quốc vương có thể đưa ra yêu cầu về sửa đổi
đường biên giới.
Chính phủ Pháp
không chống lại yêu cầu này, về nguyên tắc, nếu đó là ý muốn của Quốc vương thì
Pháp sẽ lưu ý các cơ quan của Việt Nam về yêu cầu này. Nhưng, dường như cần hết
sức thận trọng trong vần đề này vì lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng
miền Tây Nam Kỳ vẫn còn thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới. Giữa những ví dụ
khác, cho phép nhắc lại rằng Hà Tiên đã được đặt dưói quyền tôn chủ của Hoàng
đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của
các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến.
Phụ lục BVIII
HIỆP
ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ NĂM 1954
VỀ
ĐÌNH CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM
Điều
11: Theo nguyên tắc ngừng bắn đồng thời khắp
toàn cõi Đông Dương, sự đình chỉ chiến sự phải đồng thời trên toàn cõi Việt
Nam, tại tất cả các chiến trường và cho tất cả mọi lực lượng của hai bên.
Tính theo thời
gian thực sự cần thiết để chuyển lệnh ngừng bắn tới những cấp thấp nhất của lực
lượng chiến đấu đôi bên, hai bên đồng ý sẽ thực hiện ngừng bắn hoàn toàn và
đồng thời, theo từng khoảnh lãnh thổ, trong những điều kiện sau đây:
- Ở Bắc Bộ Việt
Nam, đúng 8 giờ (đại phương) ngày hai mươi bẩy (27) tháng Bẩy (7) năm 1954.
- Ở Trung Bộ
Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày mồng một (1) tháng Tám (8) năm 1954.
- Ở Nam Bộ Việt
Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày mười một (11) tháng Tám (8) năm 1954.
Giờ địa phương
nói trong điều này là giờ kinh tuyến Bắc.
Kể từ khi thực
hiện ngừng bắn thực sự ở Bắc Bộ Việt Nam, mỗi bên cam đoan không mở những cuộc
tấn công lớn trên toàn thể chiến trường Đông Dương, không huy động lực lượng
không quân ở các căn cứ miền Bắc Bộ Việt Nam ra ngoài địa hạt Bắc Bộ Việt Nam.
Hai bên cam đoan gửi cho nhau để biết những kế hoạch chuyển quân của mình từ
vùng tập hợp này sang vùng tập hợp khác, trong thời hạn hai mươi lăm (25) ngày
kể từ ngày Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực.
…
Điều
15:
…
2- Những cuộc
rút quân và chuyển quân sẽ tiến hành theo thứ tự và những thời hạn (kể từ ngày
Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực) định sau đây:
Quân
đội Liên hiệp Pháp:
Chu vi Hà Nội
tám mươi (80) ngày.
Chu vi Hải
Dương một trăm (100) ngày.
Chu vi Hải
Phòng ba trăm (300) ngày.
Quân
đội Nhân dân Việt Nam:
Khu Hàm Tân -
Xuyên Mộc tám mươi (80) ngày.
Đợt thứ nhất
của khu tạm đóng quân ở Trung Bộ Việt Nam tám mươi (80) ngày.
Khu Đồng Tháp
Mười một trăm (100) ngày.
Đợt thứ hai của
khu tạm đóng quân ở Trung Bộ Việt Nam một trăm (100) ngày.
Khu Mũi Cà Mâu
hai trăm (200) ngày.
Đợt chót của
khu tạm đóng quân ở Trung Bộ Việt Nam ba trăm (300) ngày.
….
Điều
47:
…
Làm tại
Giơ-ne-vơ, ngày 20 tháng 7 năm 1954, lúc 24 giờ, bằng tiếng Pháp và tiếng Việt;
cả hai bản đều có giá trị như nhau.
Thay mặt Tổng
Tư
lệnh
Thay mặt Tổng Tư lệnh
Quân đội Nhân
dân
Quân đội Liên hiệp Pháp
Việt
Nam
ở Đông Dương
TẠ
QUANG
BỬU
Thiếu tướng DELTEIL
Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng
Phụ lục BIX
TUYÊN
BỐ CỦA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG
MẶT
TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN
NAM VIỆT NAM VỀ CÁC ĐƯỜNG BIÊN
GIỚI
CỦA VƯƠNG QUỐC CĂM-PU-CHI-A
Với lòng mong
muốn phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp và tình anh em giữa nhân dân
Việt Nam và nhân dân Khmer trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình: tôn
trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình;
Với hành động
mà đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn và Băng Cốc đòi hỏi trâng tráo xem xét lại
các đường biên giới hiện tại của Căm-pu-chi-a và không ngừng đe doạ độc lập,
chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Vương quốc Căm-pu-chi-a;
Đáp ứng Thông
cáo ngày 9 tháng 5 năm 1967 của Chính phủ Vương quốc Căm-pu-chi-a kêu gọi tất
cả các nước nhằm tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Căm-pu-chi-a trong đường biên
giới hiện tại;
Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trân trọng tuyên bố:
1- Lập trường
trước sau như một là thừa nhận toàn vẹn lãnh thổ của Căm-pu-chi-a trong các
đường biên giới hiện tại và cam kết tôn trọng đường biên giới đó.
2- Thừa nhận và
cam kết và cam kết tôn trọng các đường biên giới hiện tại giữa miền Nam Việt
Nam và Căm-pu-chi-a.
3- Kịch liệt
lên án sự đe doạ và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Nam Việt
Nam và Thái Lan của chúng chống lại Vương quốc Căm-pu-chi-a, hoàn toàn phản đối
âm mưu hòng làm thay đổi đường biên giới hiện tại của Vương quốc Căm-pu-chi-a.
Chính sách của
Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về các đường
biên giới của Căm-pu-chi-a cũng như chính sách chung của mình đối với Vương
quốc Căm-pu-chi-a phù hợp với các quyền lợi sát sườn của nhân dân hai nước
trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, nhằm bảo vệ các quyền lợi dân tộc
thiêng liêng của mỗi nước, đồng thời phù hợp với sự nghiệp đời sống lâu dài về
mọi mặt, đúng với khát vọng của dân tộc mỗi nước. Chính sách này là một sự đóng
góp quý báu vì hoà bình và an ninh trong khu vực này.
Miền
Nam Việt Nam, ngày 31 tháng 5 năm 1967
Uỷ
ban Trung ương Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam
Phụ lục BX
TUYÊN
BỐ CỦA CHÍNH PHỦ
NƯỚC
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN
BIÊN
GIỚI HIỆN TẠI CỦA CĂM-PU-CHI-A
Theo điều 12
Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, các nước
tham gia Hội nghị đã cam kết tôn trọng các quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ
của Căm-pu-chi-a, không can thiệp vào nội trị của nước đó.
Nhưng, trong
lúc đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam, can thiệp quân sự vào Lào, chúng đã
cùng bọn cầm quyền ở Sài Gòn và Băng Cốc liên tiếp uy hiếp độc lập, chủ quyền,
trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Vương quốc Căm-pu-chi-a; mưu toan sửa đổi
biên giới hiện tại của Căm-pu-chi-a. Rõ ràng Mỹ đã chà đạp Hiệp nghị Giơ-ne-vơ
năm 1954 về Đông Dương, phá hoại nghiêm trọng hoà bình ở Đông Dương và khu vực
này.
Nhân dân Khmer,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Xăm-đéc Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, đã kiên
quyết chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ
những quyền dân tộc thiêng liêng của mình. Nhân dân Việt nam luôn luôn hết lòng
ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa đó của nhân dân Khmer. Trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược, tình hữu nghị thân thiết và đoàn kết
chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Khmer anh em ngày càng củng cố và
phát triển.
Xuất phát từ
chính sách trước sau như một của mình đối với Vương quốc Căm-pu-chi-a là tôn
trọng độc lập, chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Căm-pu-chi-a,
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trịnh trọng tuyên bố:
1-Công nhận và
cam kết tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Căm-pu-chi-a trong biên giới hiện tại.
2- Hoàn toàn
tán thành tuyên bố ngày 31 tháng 5 năm 1967 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công nhận biên giới hiện tại giữa miền Nam
Việt Nam và Căm-pu-chi-a.
Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà công nhận và cam kết tôn trọng biên giới đó.
Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà tin tưởng rằng việc tăng cường những quan hệ láng
giềng tốt và việc phát triển tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam
và Căm-pu-chi-a là phù hợp với lợi ích của hai nước, với lợi ích của cuộc đấu
tranh chung của nhân dân Đông Dương chống đế quốc xâm lược Mỹ, bảo vệ các quyền
dân tộc thiêng liêng của mỗi nước, bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, ở Đông Nam Á
và thế giới.
Hà
nội, ngày 8 tháng 6 năm 1967
Phụ lục BXI
HIỆP
ĐỊNH PA-RI NĂM 1973
VỀ
CHẤM DỨT CHIẾN TRANH
LẬP
LẠI HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM
Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hoà với sự thoả thuận của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hoà miền Nam Việt Nam,
Chính phủ Hoa
Kỳ với sự thoả thuận của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà,
Nhằm mục đích
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam Việt Nam, góp phần củng cố hoà bình ở châu Á và thế giới,
Đã thoả thuận,
cam kết tôn trọng và thi hành những điều khoản sau đây:
Điều
1: Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận.
…
Điều
20:
a- Các bên tham
gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam phải triệt để tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954 về Căm-pu-chi-a và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1962 về Lào đã công nhận các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Căm-pu-chi-a và nhân dân Lào: độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các bên phải tôn trọng
nền trung lập của Căm-pu-chi-a và Lào.
Các bên tham
gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam cam kết không dùng lãnh thổ của Căm-pu-chi-a và
lãnh thổ của Lào để xâm phạm chủ quyền và an ninh của nhau và của các nước
khác.
b-Các nước
ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Căm-pu-chi-a và Lào, rút hết và không
đưa trở lại vào hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, vũ
khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
c- Công việc
nội bộ của Căm-pu-chi-a và Lào phải do nhân dân mỗi nước này giải quyết, không
có sự can thiệp của nước ngoài.
d- Những vấn đề
liên quan giữa các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết, trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
…
Điều
23:
…
Làm tại Pa-ri,
ngày 27 tháng 1năm 1973 bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Bản tiếng Việt và bản
tiếng Anh đều là những bản chính thức và có giá trị như nhau.
Thay
mặt
Thay mặt
Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hoà Chính phủ Hoa Kỳ
NGUYỄN
DUY
TRINH
WILLAM PRICE ROGERS
Bộ trưởng
Bộ
trưởng
Bộ Ngoại
giao
Bộ Ngoại giao
Phụ lục BXII
HIỆP
ƯỚC HOÀ BÌNH, HỮU NGHỊ
VÀ
HỢP TÁC GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ
CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ
NHÂN
DÂN CĂM-PU-CHI-A
...
Nhằm mục đích
tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác hữu nghị lâu dài và giúp đỡ lẫn
nhau về mọi mặt để củng cố nền độc lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống
hạnh phúc của nhân dân mỗi nước, góp phần giữ gìn hoà bình và ổn định ở Đông
Nam châu Á và trên thế giới, phù hợp với những mục tiêu của phong trào các nước
Không liên kết và Hiến chương Liên hợp quốc;
Đã quyết định
ký Hiệp ước này và đã thoả thuận những điều sau đây:
...
Điều
4: Hai Bên cam kết sẽ giải quyết bằng
thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ giữa
hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký một Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng đường
biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước.
...
Điều
9:
...
Hiệp ước này
làm tại Phnom Penh, Thủ đô nước Cộng hoà nhân dân Căm-pu-chi-a, ngày 18 tháng 2
năm 1979, thành hai bản bằng tiếng Việt và tiến Khmer, cả hai văn bản đều có
giá trị như nhau.
Thay mặt Chính
phủ Thay mặt Hội đồng Nhân dân
nước Cộng hoà
xã
hội
cách mạng nước Cộng hòa
chủ nghĩa Việt
Nam
nhân dân Căm-pu-chi-a
PHẠM
VĂN
ĐỒNG
HIÊNG XOM-RIN
Thủ tướng Chính
phủ
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cách
mạng
Phụ lục BXIII
HIỆP
ƯỚC VỀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ
BIÊN GIỚI GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ
NHÂN
DÂN CĂM-PU-CHI-A
Hội đồng Nhà
nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà
nhân dân Căm-pu-chi-a;
Với lòng mong
muốn không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Căm-pu-chi-a trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt để
xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân hai nước;
…
Các Đại diện
toàn quyền, sau khi trao đổi giấy ủy nhiệm thấy là hợp lệ, đã thoả thuận những
điều sau đây:
Điều
1: Trên đất liền, hai Bên coi đường biên giới
hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư
Đông Dương (Service Géographique de l Indocchine), thông dụng trước năm 1954
hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ được hai Bên xác nhận), là
đường biên giới quốc gia giữa hai nước.
Ở
nơi nào đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ, hoặc hai Bên đều thấy chưa
hợp lý thì hai Bên sẽ cùng nhau bàn bạc giải quyết trên tinh thần bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Căm-pu-chi-a, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.
Điều
2: Hai Bên sẽ thương lượng vào thời gian
thích hợp để hoạch định đường biên giới trên biển giữa hai nước trong vùng nước
lịch sử đã được hai Bên thoả thuận theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Căm-pu-chi-a, phù hợp với
luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Điều
3: Vào thời gian thích hợp và được hai Bên
thoả thuận, hai Bên sẽ thành lập Uỷ ban liên hợp gồm số đại biểu bằng nhau của
mỗi Bên để hoạch định đường biên giới đất liền và đường biên giới trên biển
theo Điều 1 và Điều 2 của Hiệp ước này, soạn thảo Hiệp ước về hoạch định đường
biên giới quốc gia giữa hai nước.
Điều
4: Hiệp ước này sẽ được phê chuẩn và có
hiệu lực kể từ ngày trao đổi thư phê chuẩn.
Hiệp ước này sẽ
hết hiệu lực ngay sau khi Hiệp ước về hoạch định biên giới quốc gia giữa hai
nước nói ở Điều 3 trên đây có hiệu lực.
Làm tại Phnom
Penh ngày 20 tháng 7 năm 1983 thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Khmer, cả
hai văn bản đều có giá trị như nhau.
Được uỷ nhiệm
của Hội
đồng
Được uỷ nhiệm của Hội đồng
Nhà nước nước
Cộng
hoà
Nhà nước nước Cộng hoà
Xã hội chủ
nghĩa Việt
Nam
nhân dân Căm-pu-chi-a
NGUYỄN
CƠ
THẠCH
HUN XEN
Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao
Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao
nước Cộng hoà
xã
hội
nước Cộng hoà nhân dân
chủ nghĩa Việt
Nam
Căm-pu-chi-a
Phụ lục BXIV
HIỆP
ĐỊNH VỀ QUY CHẾ BIÊN GIỚI
GIỮA
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT
NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ
NHÂN
DÂN CĂM-PU-CHI-A
Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Căm-pu-chi-a;
...
Với lòng mong
muốn xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, phù hợp với
mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Căm-pu-chi-a nhằm tăng cường bảo vệ an ninh khu
vực biên giới hai nước;
Đã thoả thuận
những điều sau đây:
I. Đường
biên giới và khu vực biên giới
Điều
1: Cho đến khi được hoạch định chính thức, biên
giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà
nhân dân Căm-pu-chi-a là đường biên giới hiện tại được thể hiện trên bản đồ tỷ
lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Service Géographique de l Indochine)
thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất như qui định ở Điều 1 Hiệp ước
về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Căm-pu-chi-a ký ngày 20 tháng 7 năm 1983.
Điều
2: Đường biên giới quốc gia giữa hai nước phải
được tôn trọng. Các mốc giới được bảo vệ. Cấm xê dịch hoặc làm hư hại mốc
giới.
Điều
19:
…
Làm tại Phnom
Penh, ngày 20 tháng 7 năm 1983 thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Khmer, cả
hai văn bản đều có giá trị như nhau.
Thay
mặt
Thay mặt
Chính phủ nước
Cộng
hoà
Chính phủ nước Cộng hoà
xã hội chủ
nghĩa Việt
Nam
nhân dân Căm-pu-chi-a
NGUYỄN
CƠ
THẠCH
HUN XEN
Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
nước Cộng hoà
xã
hội
nước Cộng hoà nhân dân
chủ nghĩa Việt
Nam
Căm-pu-chi-a
Phụ lục BXV
HIẾN
PHÁP VƯƠNG QUỐC CĂM-PU-CHI-A
LỜI
NÓI ĐẦU
Chúng tôi là
nhân dân Khmer vốn có nền văn minh huy hoàng, đất nước hùng vĩ, rộng lớn, quang
vinh và uy tín sáng ngời như ngọc đã rơi vào nỗi kinh hoàng, trải qua bao khổ
đau, tàn phá và suy thoái trong hai thập kỷ cuối này đã thức tỉnh đứng lên kết
thành ý chí kiên cường, cùng nhau củng cố thống nhất dân tộc, bảo vệ đất nước
Căm-ph-chi-a, chủ quyền cao quý và nền văn minh Angkor tươi đẹp, xây dựng lại
đất nước thành “Hòn đảo hoà bình” dựa trên hệ thống dân chủ, tự do, đa đảng,
bảo đảm nhân quyền, tôn trọng pháp luật, chịu trách nhiệm cao trước vận mệnh
tương lai của dân tộc, làm chủ đất nước không ngừng phát triển và thịnh vượng.
Với ý chí đó,
chúng tôi ghi nhận trong Hiến pháp của Vương quốc Căm-pu-chi-a như sau:
CHƯƠNG
1. VỀ CHỦ QUYỀN
Điều
1: Nước Căm-pu-chi-a là Vương quốc, có Vua,
thực hiện theo hiến pháp và theo chủ nghĩa dân chủ, tự do, đa đảng.
Vương quốc
Căm-pu-chi-a là một nước độc lập, có chủ quyền, hoà bình, trung lập thường
xuyên và không liên kết.
Điều
2: Toàn vẹn lãnh thổ Vương quốc
Căm-pu-chi-a không thể bị vi phạm trong đường biên giới của mình đã được xác
định trong bản đồ tỷ lệ 1/100.000 làm giữa những năm 1933-1953 và được quốc tế
công nhận giữa những năm 1963-1969.
THƯ
MỤC THAM KHẢO
CHỦ
YẾU
1-
Phan An: Văn hoá Khơ me trong bối cảnh đồng bằng sông Cửu Long. Tc.
Dân tộc học, số 2/1987.
2-
Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB
Thuận Hoá, Huế, 1997.
3-
Đào Duy Anh: Lai lịch thành Sài Gòn (tư liệu địa
lý lịch sử). Tc. Nghiên cứu lịch sử, số 140/1971.
4-
Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các
vua triều Nguyễn. NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971.
5-
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn
hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1990.
6-
Cristoforo Borri: Xứ Đàng trong năm 1621. Hội khoa
học lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1998.
7-
Christoforo Borri: Relation de la Nouvelle mission des
pères de la compagnie de Jésus au royaume de Cochinchine. Roma 1631. BAVH.
1931
8-
Coedèc G: Les peuples de la péninsule Indochinoise. Paris,
1962.
9-
Boudet Paul: L’Indochine dans le passé. Société
de Géographie, Hanoi 1941.
10-
Bouinais.A, Paulus.A: La Cochinchine contemporaine.
Challamel Ainé, Paris,1884.
11-
Charignon.A.J.H: La grande Java de Marco Polo en
Cochinchine.BSEI, 1929 t.4. No 4.
12-
Thái Văn Chải: Chữ cổ trên hiện vật vàng ở di tích
Đá Nổi, huyện Thoại Sơn (An Giang). TC. Khảo cổ học, số 4/1986.
13-
Sarin Chhak: Les fronttìeres du Cambodge.
Luận án Tiến sĩ, Paris, 1966.
14-
Hoàng Xuân Chinh: Về loại hình mộ táng trong văn hoá Óc
Eo.Những phát hiện mới về khảo cổ học, 1996.
15-
Cadìere R.B: Géographie historique du Quang Binh
d’après les annanles impériales. BEFEO, 1902.
16-
Charles Lemire: Cochinchine francaise et Royaume de
Cambodge.Challamel Ainé, Paris, 1869.
17-
Nguyễn Khoa Chiêm: Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công
nghiệp diễn chí, NXB Hội nhà văn, 2003.
18-
Đặng Văn Chương: Về cuộc tấn công của Xiêm vào Hà Tiên
và Châu Đốc cuối năm 1833 đầu năm 1834. TC. Nghiên cứu lịch sử, số 3
(322), 2002.
19-
Coedès. G: Deux inscriptions sanskrites du
Fou-nan. BEFEO, XXXI, 1931.
20-
Coedès. G: Les États hindouisés d’Indochine et
d’Tndonésie. E.De Boccard, Paris, 1948.
21-
Đào Linh Côn: Văn hoá vật chất, văn hoá óc Eo ở
đồng bằng Nam Bộ. Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh,
1998.
22-
Nguyễn Lân Cường: Nghiên cứu những di cốt người cổ tìm
thấy ở hai địa điểm Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, huyện Cần Giờ. TC. Khảo cổ học
số 2/1995.
23-
A. Dauphin Meunier: Le Cambodge.
Paris, 1965.
24-
Lê Xuân Diệm: Khái quát những phát hiện mới của
khảo cổ học ở Miền Nam. Những phát hiện mới về khảo cổ học, Thành phố
Hồ Chí Minh, 1978.
25-
Lê Xuân Diệm, Võ Sĩ Khải: Khảo cổ học với việc nghiên cứu Phù
Nam. Những phát hiện mới về khảo cổ học, 1977.
26-
Lê Xuân Diệm - Đào Linh Côn - Võ Sĩ Khải: Văn
hoá Óc Eo những khám phá mới. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
27-
Trương Minh Đạt: Hà Tiên - điểm cư trú của người Việt
cổ?. Tc. Nghiên cứu lịch sử, số 5 (270)/1993.
28-
Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ lục
tỉnh.NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
29-
Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1977.
30-
Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1998.
31-
Mạc Đường: Quá trình phát triển dân cư và dân
tộc ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Tc. Nghiên
cứu lịch sử, số 3 (204)/1982.
32-
Ngọc Đường: Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam. NXB
Ngày Nay, Sài Gòn, 1956.
33-
Vũ Minh Giang: Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên
vùng đất Nam Bộ. Tc Khoa học số 1/2006.
34-
Trần Văn Giầu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ
biên):Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh. NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 1987.
35-
Nguyen Thi Hao: Les relations Khmero-Vietnamiennes.
Paris,1973.
36-
Nguyễn Hữu Hầu: Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người
có công khai phá miền Nam. Sài Gòn, 1970.
37-
Nguyễn Văn Hầu: Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá
miền Hậu Giang. Hương Sen, Sài Gòn, 1972.
38-
M. Hickey: Sons of the Mountains, Yale
University, 1982.
39-
Diệp Đình Hoa: Nền văn minh nông nghiệp của cư dân
thời đại đồ đồng và sơ kỳ thời đại đồ sắt ở miền Đông Nam Bộ. Tc. Dân
tộc học, số 3/1978.
40-
Cheng Ching Ho: Họ Mạc và chúa Nguyễn tại Hà Tiên. Văn
hoá Á châu, số 7/1958.
41-
Bùi Chí Hoàng, Nguyễn Văn Long, Vũ Nhất Nguyên, Phạm Hữu Thọ: báo
cáo sơ bộ khai quật địa điểm Próh (Đơn Dương - Lâm Đồng).Những phát hiện
mới về khảo cổ học, 1999.
42-
Lê Hương: Sử liệu Phù Nam. Sài Gòn, 1974.
43-
Jansé Olov: Vietnam, carrefour de peuples et de
civilisations. France-Asie, 1961, No.165.
44-
Jacques C.: Funan, Zhenla: The reality concealed
by these Chinese views of Indocchina. Early South-East Asia (Edited by
R.B.Smith and W. Watson), Oxford University Press, New York, 1979.
45-
Thái Văn Kiểm: Đất Việt trời Nam. Sài Gòn, 1960.
46-
Lê Trung Khá: Di cốt động vật ở khu di tích Óc Eo. Long
Xuyên, 1984.
47-
Võ Sĩ Khải: Khảo cổ học và văn minh Phù Nam.
Tc. Khảo cổ học, số 1, 1978.
48-
Võ Sĩ Khải: Sự phân bố các di chỉ dạng Óc Eo ở
vùng châu thổ sông Cửu Long. Những phát hiện mới về khảo cổ học, 1981.
49-
Nguyễn Đình Khoa: Loại hình nhân chủng và nguồn gốc
lịch sử người Khmer Nam Bộ. Tc. Dân tộc học, số 4/1981.
50-
Phan Khoang: Việt sử; Xứ Đàng Trong (1558-1777). Khai
Trí, Sài Gòn, 1967.
51-
Mã Đoan Lâm: Văn Hiến thông khảo. Tư liệu
khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H.875.
52-
Phan Huy Lê: Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút trong
lịch sử Tây sơn và lịch sử dân tộc. Tc. Nghiên cứu lịch sử, số 1 (220)/
1985.
53-
Phan Huy Lê: Về việc đánh giá họ Mạc ở Hà Tiên.
250 năm Tao Đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), Kiên Giang, 1987.
54-
Huỳnh Lứa: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam bộ các
thế kỷ XVII, XVIII, XIX. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
55- Lương
thư. Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H.1953.
56-
Malleret Louis: L’Archéologie du Delta du Mékong, EFEO
vol XL-IXI (4 tomes) Paris, 1959-1963.
57-
G. Maspéro: L’empire Khmer, Phnom Penh, 1904.
58-
Vann Molivant: Plan d’urgence pour la réhabilitation
des ressources culturelles et économiques des Sites d’Angkor. Conservation
of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries. Nara
1993.
59-
Li Ta Na: Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ
17 và 18. NXB Trẻ, Tp. HCM, 1999.
60-
Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam. Sài Gòn, 1973.
61-
Lưu Văn Nam: Người Khmer Nam Bộ. Nam Bộ
xưa và nay, NXB Tp Hồ Chí Minh, 1999.
62-
Hãn Nguyên: Hà Tiên, chìa khoá Nam tiến của dân
tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long. Ts. Sử Địa, 1970, số
19-20.
63-
Lịch sử Đạo Nguyên: Thủy Kinh chú, Thượng Hải cổ
tịch xuất bản xã, 1990.
64-
Lương Ninh: Nước Chí Tôn - một quốc gia cổ ở miền
Tây sông Hậu. Tc. Khảo cổ học, số 1/1981.
65-
P. Pelliot: Le Fou-nan. BEFEO III, 1903.
66-
Chu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ ký, Hà
Văn Tấn dịch, NXB Thế Giới, Hà Nội, 2006.
67-
Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Bản
dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
68-
Nguyễn Quang Quyền: Thông báo về các sọ cổ thuộc văn hoá
Óc Eo mới tìm được ở 2 di chỉ thuộc tỉnh Kiên Giang và tỉnh Hậu Giang. Tc.
Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, số 5/1990.
69-
Vương Hồng Sển: Sài Gòn xưa nay. NXB Tp. Hồ
Chí Minh, 1992.
70-
Keith.W.Taylor: Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc
Nam tiến.Tc. Xưa và Nay, số 104, 11/2001, số 106, 12/2001.
71- Tân
Đường thư. Bản chữ Hán, Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội,
H.1948.
72-
Hà Văn Tấn: Óc Eo - những yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Văn hoá Óc Eo và các văn hoá cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Sở
Văn hoá Thông tin tỉnh An Giang, Long Xuyên, 1984.
73- Thanh
triều văn hiến thông khảo. Bản chữ Hán, Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
74-
Ngô Đức Thịnh: Người Khơ Me đồng bằng sông Cửu Long
là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tc. Nghiên cứu lịch
sử, số 3 (216)/1984.
75-
Nguyễn Đăng Thục: Nam tiến Việt Nam. Tc. Sử Địa, số
19/1970.
76- Tiền
Hán thư. Bản chữ Hán, Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
77-
Bùi Đức Thịnh: Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ.
NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
78- Tuỳ
thư. Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội,
H.1949.
79-
Phan Lạc Tuyên: Cuộc khẩn hoang miền Lục tỉnh của
quân đội Việt Nam thời xưa. Tc. Bách Khoa, 1957, số 12.
80-
Dương Văn Tuyên, Võ Sĩ Khải: Những di chỉ khảo cổ
học ở tỉnh Kiên Giang. Văn hoá Óc Eo và các
văn hoá cổ, Long Xuyên, 1984.
81-
Phan Thị Yến Tuyết: Tín ngưỡng cúng việc lễ - một tâm
thức về cội nguồn của cư dân Việt khẩn hoang tại Nam Bộ. Tc. Dân tộc,
số 1 (101)/1999.
82-
Nguyễn Duy Tỳ: Kết quả khảo sát Ba Thê - Óc Eo 1997.
Những phát hiện mới về khảo cổ học, 1997.
83-
Viện Văn hoá: Văn hoá người Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long. NXB Văn hoá dân tộc, 1993.
84-
Thạch Voi: Về những đặc điểm văn hoá Khơ Me đồng
bằng sông Cửu Long. Tc. Dân tộc học, số 1/1987.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét